TỬ PHỦ VŨ TƯỚNG LIÊM
Cách cục Tử Phủ Vũ Tướng là
có đủ 4 sao này (Tử Vi, Thiên Phủ, Vũ Khúc, Thiên Tướng) ở trong 4 cung: Mệnh,
Di, Tài, Quan.
Nếu cả 4 sao đều miếu vượng,
sáng rực rỡ, không gặp Tuần, Triệt, không bị hung sát tinh thì thật tuyệt vời,
được quyền quý giàu sang. Nhất là khi Vũ Khúc Thiên Phủ sáng đồng cung ở Tài Bạch
– rất giàu có.
Độ quyền quý giàu sang sẽ
giảm nếu một hay vài sao trong 4 sao này có độ sáng giảm, thành đắc, hoặc hãm,
hoặc gặp Tuần, Triệt, …
Nếu không đủ 4 sao thì
không coi là cách cục Tử Phủ Vũ Tướng.
CƠ NGUYỆT ĐỒNG LƯƠNG
Trong khi cách cục Tử Phủ
Vũ Tướng (nếu sáng) là quyền quý giàu sang; cách cục Sát Phá Tham nếu sáng là
“tướng”, “anh dũng"; thì cách cục Cơ Nguyệt Đồng Lương nếu sáng và có nhiều
cát tinh hội hợp, không phạm hung sát tinh thì là cách cục của người có danh tiếng
về lĩnh vực văn hóa, tinh thần, kiến thức, có thể gọi là danh nhân.
Còn nếu thiếu sáng thì sẽ
là người hiền lành, bình thường, đi làm thuê hay nghề chuyên môn – thường liên
quan đến văn hóa, kiến thức, tinh thần …thành tựu “danh tiếng” tỷ lệ thuận với
độ sáng của bộ sao này.
Điểm chung của bộ này là
người hiền lành, đề cao sự an toàn, hoặc say mê, tập trung và giỏi chuyên môn,
không quá ham mê chức quyền, tài lộc, doanh thương.
SÁT PHÁ THAM
Cách cục Sát Phá Tham là
cách cục “võ” nếu các sao này sáng; hoặc cách cục “gian” hoặc “bi đát” nếu các
sao này hãm (sau khi đã xem xét sự thay đổi độ sáng nếu gặp Tuần, Triệt)
Thất Sát, Phá Quân, Tham
Lang luôn tam hợp với nhau, nên có một sao ở Mệnh thì sẽ đủ cách cục Sát Phá
Tham. Nếu các sao đều sáng thì cách cục này cũng khá tốt; tính cách nam tính, mạnh
mẽ, dám nghĩ dám nói dám làm dám chịu trách nhiệm, quyết đoán, thẳng tính, ruột
để ngoài da, cương trực, khẳng khái, không ăn hiếp ai nhưng không để ai lấn ép
mình. Sự tốt xấu của Mệnh phụ thuộc nhiều vào độ sáng của sao.
Dù trường hợp nào thì cách
cục này cũng mang tính chất “chiến đấu”, “tướng”, “anh hùng”, cuộc đời nhiều
thăng trầm, phát trong thời loạn.
Càng nhiều sao hãm thì cách
cục càng xấu nếu không được cứu giải như Tuần, Triệt và các sao phúc đức (cả
chính tính cả phụ tinh): xấu tính tình, xấu bổn mạng.
Đặc biệt chỉ có cách cục
Sát Phá Tham (tại Mệnh) mới có hạn Trúc
La. Hạn Trúc La là người Sát Phá Tham khi đại hay tiểu hạn cũng có Sát
Phá Tham. Nếu Sát Phá Tham sáng thì hạn Trúc La sẽ có những cơ hội, bước ngoặc
cuộc đời tốt đẹp. Nếu Sát Phá Tham hãm thì hạn Trúc La này sẽ rất khốn khổ,
gian nan, xấu, làm thay đổi cả cuộc đời.
CỰ NHẬT
Cự Nhật là cách cục khi
cung mệnh và cung chiếu, 2 cung tam hợp có Cự Môn và Thái Dương (Nhật). Tính chất
cơ bản của người Cự Nhật là phản đối, phản kháng, bất mãn có phần công khai, do
ảnh hưởng tính chất của Cự Môn và Thái Dương.
Cự Môn là sao tài năng lý luận, phân tích; đồng
thời cũng là sao thị phi, chủ bất mãn. Nếu Cự Môn hội Thái Dương sẽ làm tăng
tính chất phản đối của nó. Nếu gặp Thái Dương đắc sẽ là sự phản đối chính trực
và cương nghị, nên Cự Môn rất cần Thái Dương để tránh sự nghi ngờ, thị phi từ
người khác.
Thái Dương, Cự Môn đồng
cung tại cung Dần, Thân (Cung Dần tốt hơn cung Thân, vì Cự Môn và Thái Dương đều
miếu vượng). Ưu điểm: tài vận vượng thịnh, có chí tiến thủ, có tài hùng biện, hết
lòng với sự nghiệp công ích, cần phải gắng gỏi cần cù, có công mài sắt có ngày
nên kim. Khuyết điểm: cần phải cạnh tranh mới giành được thành công, nên dễ vướng
vào điều tiếng, thị phi, gặp sao Hóa Kỵ thị phi càng nhiều.
Cự Môn, Thái Dương tại cung
Dần, cung tam phương tứ chính có các cát tinh như Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa Khoa,
Hóa Quyền, Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt gia hội
là phù hợp với cách cục này. Cách cục này chủ về hiển đạt, nên theo nghiệp
chính trị, có khả năng trở thành người nổi tiếng trong xã hội, được danh nhiều
hơn lợi. Người sinh năm Canh, Tân, Quý mà không bị bốn sát tính gia hội là thượng
cách. Tiếp đến là cung Thân, nếu cung tam phương không có sát tinh cũng không
được toàn mỹ.
CỰ CƠ MÃO DẬU
Cự Môn là một Bắc đẩu tinh,
thuộc hành Thủy. Có lẽ hành Thủy khiến cho Cự Môn trở nên uyển chuyển theo hoàn
cảnh, “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”. Cự đắc địa đi với những võ tinh thì sẽ hỗ
trợ cho võ tinh thêm mạnh mẽ để phát về võ nghiệp. Nếu đi với những sao văn
tinh thì sẽ thành công trong lãnh vực văn học, nghệ thuật, nếu đi với những sao
có khuynh hướng về kinh doanh thì sẽ trở thành những tay kinh doanh cự phách,
và tương tự, khi đi với dâm tinh thì Cự rất buông thả.
Cự miếu địa ở Mão Dậu, vượng
địa ở Tý Ngọ Dần, đắc địa ở Thân và Hợi, hãm ở Thìn Tuất Sửu Mùi, Tỵ. Mặc dù bị
xếp hạng là ám tinh nhưng Cự miếu vượng thủ Mệnh là người thông minh và nhân hậu.
Cự hãm thì thật sự đúng với biệt danh là ám tinh. Cự là cái miệng, của lời ăn
tiếng nói… cho nên khi đắc địa thì khéo ăn nói, có tài hùng biện, có khả năng
thuyết phục người. Nhưng nếu hãm thì lời nói thiếu suy nghĩ, thiếu thận trọng dễ
mất lòng người và dễ bị tai tiếng thị phi, đôi lúc còn đưa đến tai họa cũng vì
cái miệng.
Với bản tính bất nhất như đã nói trên, may mắn
cho Cự tại hai vị trí miếu địa Mão Dậu, ám tinh này gặp được thiện tinh Thiên
Cơ, thuộc Nam đẩu tinh, hành Mộc. Thiên Cơ cũng góp một phần bản chất vào mẫu
người doanh thương Cự Cơ Mão Dậu này. Thiên Cơ miếu ở Thìn Tuất Mão Dậu, vượng ở
Tỵ, Thân, đắc ở Tí Ngọ Sửu, hãm ở Dần Hợi. Cơ là một phúc thiện tinh cho nên dù
hãm cũng không hề mất hết thiện tính của mình. Khi đắc địa, Cơ chỉ sự khéo léo
về tay chân, sáng suốt về trí óc, có mưu trí nhưng lại xử sự nhân từ và cởi mở.
Nếu ở vị trí miếu vượng thì chủ về phú quý, phúc thọ, và đặc biệt là có năng
khiếu về kinh doanh.
Như vậy, hai sao Cự Cơ cùng
miếu tại Mão Dậu. Hành Thủy của Cự càng sinh vượng cho hành Mộc của Cơ, hơn nữa,
cũng tại vị trí này, Cơ đặc biệt có năng khiếu về kinh doanh, cho nên Cự trở
thành kẻ đồng hành rất tốt. Với bản tánh gan dạ, liều lĩnh, Cự hỗ trợ Cơ mạnh mẽ
trong lãnh vực này. Người Cự Cơ Mão Dậu là người của thương trường. Trong khi
người “Tham Vũ đồng hành” thường hoạt động trong lãnh vực kỹ nghệ chuyên môn
thì người Cự Cơ Mão Dậu không chuyên về một lãnh vực nào cả, có thể là ngành
hàng tiêu dùng, có thể là những sản phẩm về văn học nghệ thuật… Bản tính uyển
chuyển của Cự, cho nên những sao đi kèm với Cự Cơ sẽ quyết định đương số sẽ
kinh doanh trong lãnh vực nào.
Ví dụ: Mệnh ở Mão hay Dậu
có Cự Cơ với Hổ Tuế Phù, thì đây là những người có năng khiếu về luật pháp, những
nhà làm luật, những quan tòa hay những danh sư danh tiếng, và lãnh vực kinh
doanh của họ sẽ liên quan đến luật.
Mệnh ở Mão Dậu có Cự Cơ
thêm Xương Khúc, Khôi Việt, Khoa, Tấu là người có năng khiếu về văn học, nghệ
thuật, cho nên khi vào đường kinh doanh thì lãnh vực hoạt động thường là những
nhà xuất bản sách, báo chí, nhạc, hay phim…
Mệnh ở Mão Dậu có Cự Cơ
thêm Tả Hữu, Lộc, Hình, Y, Quang, Quý là người kinh doanh trong y dược học. Nhỏ
thì là phòng mạch, lớn thì là bệnh viện, viện bào chế dược phẩm…
Cách Cự Cơ Mão Dậu cũng chỉ
mới là giới tiểu thương, nếu muốn kinh doanh với tầm vóc lớn thì phải có thêm
Song Hao mới gọi là đắc cách Chúng Thủy Triều Đông, có nghĩa là tất cả các dòng
sông đều chảy về hướng Đông. Song Hao (Đại Hao + Tiểu Hao) thuộc hành Thủy, lại
được hành Kim của cung Dậu tương sinh, cho nên nguồn nước sẽ được dồi dào bất tận.
Trong thiên nhiên, nước là biểu tượng của tiền bạc. Những dòng sông từ Dậu là
phương Tây, chảy về Mão là phương Đông, khiến cho hành Mộc của Thiên Cơ được
hưng thịnh, và đây mới đúng là tầm vóc của mẫu người kinh doanh Cự Cơ Mão Dậu
ngộ Song Hao. Cũng vì thế mà Mệnh an tại Mão tốt hơn ở Dậu, tốt nhất đối với những
tuổi Ất, Tân, Kỷ và Bính, những tuổi này sẽ đạt phú quý một cách dễ dàng hơn những
tuổi khác.
Nếu Mệnh ở Dậu, thì đương số
cũng là người kinh doanh mà trở nên giàu có, nhưng càng giàu thì tuổi thọ càng
giảm.
“Song Hao Mão Dậu ái ngộ Cự
Cơ, tối hiềm Hóa Lộc”: Song Hao ở Mão Dậu kỵ gặp Hóa Lộc không phải nguyên nhân
chính là do sự sinh khắc của ngũ hành mà là do ý nghĩa của Song Hao mà ra: Hao
là hao tốn, tiêu hao, với ý nghĩa đó cho nên Hóa Lộc, Lộc Tồn không nên gặp
Hao, nếu gặp thì khác nào mang tiền thả trôi theo dòng nước. Tóm lại, Mệnh ở
Mão Dậu có Cự Cơ Song Hao Hóa Lộc hay Lộc Tồn thì đương số cũng là ra tiền một
cách dễ dàng, nhưng tiền vào tay mặt thì ra tay trái.
Đối với nữ phái, Mệnh ở Mão Dậu có Cự Cơ là
người đàn bà có tay làm ăn buôn bán, trên thương trường không thua gì những đấng
mày râu. Tuy nhiên, Cơ hiền lành không thể trói buộc nổi Cự với bản tánh liều
lĩnh, phóng khoáng. Cự dù miếu vượng cũng có điều bất lợi cho phái nữ bởi vì Cự
là cái miệng, là lời ăn tiếng nói, là khẩu thiệt thị phi, khắc khẩu, vợ chồng
xa nhau thì thương nhớ, gần nhau thì cãi vã suốt ngày… Cho nên đàn bà có Cự thủ
Mệnh hay Thân thì bên ngoài giỏi, tháo vát nhưng bên trong gia đạo thường vẫn
có điều không ổn, ít nhiều hạnh phúc gia đình bị những đám mây đen của Cự lãng
vãng đâu đó, một phần chính cũng vì đàn bà Cự Cơ Mão Dậu có khá nhiều tham vọng
và khuynh hướng tình dục rất mạnh mẽ. Đó chính là nguyên nhân khiến cho Cự Môn
phải mang danh là ám tinh. Với bản chất đặc biệt đó ta thấy có hai mẫu người
đàn bà Cự Cơ Mão Dậu:
+Họ có thể che dấu hay dồn
nén khuynh hướng tình dục của mình thành những tham vọng trên lãnh vực làm ăn
kinh doanh của họ.
+Là người có cuộc sống
buông thả, phóng khoáng. Và trên thương trường đây cũng là người đàn bà không
thua kém ai, cả trong cuộc chơi, họ cũng là người dám bỏ ngàn vàng để mua lấy
trận cười làm vui…
NHẬT NGUYỆT ĐỒNG LÂM
Người có Nhật thủ Mệnh là
người rất năng động, có phần nóng nảy. Người có Nguyệt thủ Mệnh thường mang
tính đa sầu, đa cảm. Nhật thuộc nam đẩu tinh, hành Hỏa, miếu địa ở Tỵ, Ngọ tức
là mặt trời vào lúc giữa trưa, và vượng địa ở Dần, Mão, tức là mặt trời lúc
bình minh. Ở 4 vị trí trên, Nhật chủ về sự thông minh, lòng nhân đức, tài và uy
quyền.
Nhật rất hợp với người Dương
Nam, Dương Nữ, và những người sinh vào ban ngày. Nguyệt thuộc bắc đẩu tinh,
hành Thủy, miếu địa ở Dậu, Tuất, Hợi, là lúc mặt trăng tỏa sáng nửa đêm, vượng
địa ở hai cung Thân (lúc trăng mới mọc), và Tí (lúc trăng sắp tàn). Ở những vị
trí miếu vượng Nguyệt là sự nhân từ, tánh đa sầu, đa cảm và lãng mạn, có khiếu
về văn chương, nghệ thuật, đồng thời Nguyệt cũng chủ sự giàu có về điền sản như
nhà cửa, đất đai… Nguyệt đặc biệt phò trì cho người Âm Nam, Âm Nữ, những người
mạng Mộc, Thủy, và người sinh vào ban đêm, nhất là sinh vào những đêm trăng
tròn 15, 16 thì càng tuyệt hảo.
Trong cơ thể, Nhật Nguyệt
tượng trưng cho đôi mắt. Trong gia đình, Nhật là ông, là cha, là chồng, Nguyệt
là bà, là mẹ, là vợ… Điều này rất rõ khi cung hạn có Nhật hay Nguyệt tọa thủ thì
những gì xảy ra trong hạn đó không những là cho chính bản thân của mình mà còn
nói lên những sự việc xảy ra cho chồng, cho vợ, cha mẹ, ông bà của đương số nữa.
Sự biểu tượng này cũng nói lên tình cảm hay sự gần gũi mật thiết trong cuộc sống
giữa người con đối với cha hay mẹ. Chẳng hạn một người có Nhật thủ Mệnh thì người
này chịu ảnh hưởng tánh tình của cha nhiều hơn, có thể sẽ nối nghiệp cha, hoặc
có thể vì hoàn cảnh, đương số sẽ sống gần gũi và hợp với cha nhiều hơn là với mẹ.
Khi nói đến hai sao Nhật Nguyệt,
khoa Tử Vi có một nguyên tắc mà chúng ta thường nghe là “Chính bất như chiếu”
nghĩa là: Nhật Nguyệt chiếu Mệnh tốt hơn thủ Mệnh. Điều này nghĩ cũng hợp lý, rất
thực tế: chẳng hạn như chúng ta đặt một ngọn đèn ngay trước mặt mà đọc sách thì
ánh sáng chiếu trực tiếp vào mắt sẽ làm cho mắt bị chói và mau mỏi mệt hơn là để
ngọn đèn chiếu lên chụp đèn, hay chiếu vào tường rồi phản chiếu vào trang sách.
Nhật Nguyệt chỉ đồng cung ở
hai vị trí Sửu, Mùi gọi là Nhật Nguyệt Đồng Lâm. Nhật Nguyệt Đồng Lâm cũng giống
như hiện tượng Nhật Thực, Nguyệt Thực. Khi Nhật Thực hay Nguyệt Thực thì mặt
trăng che mặt trời hoặc mặt trời che mặt trăng, cho nên ánh sáng mờ mờ ảo ảo,
ngày chẳng ra ngày, đêm cũng không giống đêm. Đó chính là nét đặc thù đầu tiên
của mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm: “Những người bất hiển công danh, cũng vì Nhật
Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi”. Người Nhật Nguyệt Đồng Lâm có trí nhớ kém và thường
hay có những quyết định lầm lẫn, mãi cho đến khi việc đã xong, quay mình nhìn lại
thì mới thấy ân hận tại sao lúc đó mình làm như vậy. Người Nhật Nguyệt Đồng Lâm
thần kinh dễ bị suy yếu, hay bị những chứng nhức đầu kinh niên, căng thẳng thần
kinh, dễ bị xúc động, và chắc chắn một điều là hai mắt kém, có nhiều bệnh tật
khi còn bé. Nữ mệnh Nhật Nguyệt Đồng Lâm mỗi lần có kinh nguyệt thường bị đau bụng
dữ dội hơn những người khác và thường hay bị những chứng bệnh mà đông y gọi là
bệnh khí huyết.
Nhật Nguyệt Đồng Lâm thủ Mệnh không phải là một
cách tốt trừ những trường hợp sau:
+Nhật Nguyệt Đồng Lâm thủ Mệnh
có Tuần án ngữ và được các văn tinh như Xương Khúc, Khôi Việt, Quang Quý, Thai
Tọa, Đào Hồng Hỷ hội hợp thì trở nên tốt. Đây là số của những nhà văn, nhà thơ,
nhà báo, những người làm ngành truyền thông, hay là giới văn nghệ sĩ danh tiếng
và có địa vị trong giới văn chương, nghệ thuật.
+Nhật Nguyệt Đồng Lâm thủ Mệnh
có Hóa Khoa, Hóa Lộc đồng cung hay xung chiếu, hay hợp chiếu thì lại trở nên tốt
đẹp. Công danh sự nghiệp vững vàng, có quyền cao chức trọng trong xã hội.
Ngoài hai trường hợp trên,
người Nhật Nguyệt Đồng Lâm thủ Mệnh ở Sửu/Mùi thì cuộc đời cũng được cơm no áo ấm
nhưng đây là mẫu người bất đắc chí, có khả năng mà không gặp được thời vận điển
hình như nhà thơ Tú Xương ngày xưa.
Cũng là Nhật Nguyệt đồng
cung nhưng Nhật Nguyệt chiếu Mệnh tốt hơn thủ Mệnh. Nếu Mệnh an ở Sửu được Nhật
Nguyệt đồng cung ở Mùi xung chiếu thì chắc chắn tốt hơn Nhật Nguyệt tọa thủ tại
Mệnh. Tử Vi cũng có câu phú khẳng định điều này: “Nhật Nguyệt đồng Mùi, Mệnh an
Sửu, hầu bá chi tài.” Trường hợp này nếu Mệnh có Tuần án ngữ để giữ ánh sáng của
Nhật Nguyệt, và có Hóa Kỵ thủ Mệnh như vầng mây ngũ sắc làm tăng thêm độ sáng
cho Nhật Nguyệt, được như vậy thì công danh phú quý càng rực rỡ và bền vững
hơn.
Như vậy, khi nói đến mẫu
người Nhật Nguyệt Đồng Lâm, ta phải phân biệt hai trường hợp: nếu Nhật Nguyệt đồng
cung thủ Mệnh thì cuộc đời được mô tả khái quát như câu “Những người bất hiển
công danh, cũng vì Nhật Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi”; nếu Nhật Nguyệt đồng cung
xung chiếu Mệnh thì công danh sự nghiệp chắc chắn sẽ trong tầm tay. Nhưng cho dù
ở trường hợp nào thì mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm giống nhau ở chỗ mắt yếu,
nhức đầu kinh niên, thần kinh dễ rối loạn, trí nhớ kém, phái nữ thường bị đau bụng
dữ dội khi hành kinh. Năng khiếu nổi bật nhất của họ là văn chương và nghệ thuật.
MỆNH KHÔNG THÂN KIẾP, MỆNH KIẾP THÂN KHÔNG
Không Kiếp (viết tắt là KK)
chủ sự hung hiểm, phá tán, bất hạnh, hoạnh phát - hoạnh phá. Đã mang danh là đại
sát tinh cho nên những bệnh tật hay tai họa do KK mang đến chắc không nhẹ
nhàng. Vấn đề chế giải tùy thuộc vào Phúc của mỗi người và xảy ra ở thời điểm
nào trong cuộc đời: Không Kiếp cũng như Đào Hồng, càng về cuối cuộc đời thì
càng tác hại nặng nề.
Không Kiếp thuộc hành Hỏa,
đắc địa ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi. Tại Tỵ, Hợi thì KK đồng cung cho nên uy lực sẽ gấp
đôi so với KK xung chiếu nhau ở hai cung Dần, Thân. Xét về ngũ hành thì KK tọa
thủ tại cung Tỵ là tốt nhất vì sao và cung đồng hành (Hỏa), rồi đến cung Dần vì
hành Mộc của cung sinh hành Hỏa của KK, làm cho uy lực của KK khá mạnh dù là
đơn thủ.
Mệnh hay Thân có KK đắc địa
tọa thủ cùng với những sao tốt là người kín đáo, thâm trầm, biết suy xét, có
mưu trí và rất gan dạ. Người KK không được kiên nhẫn, khi không được như ý hay
chỉ thất bại lần đầu là nản chí ngay, bỏ cuộc dễ dàng. Nếu KK đắc địa cùng những
sao xấu tọa thủ ở Mệnh thì những đức tính thăng trầm, gan dạ sẽ biến đương số
thành người thủ đoạn và dễ đi vào con đường tà đạo.
Nếu KK hãm thủ Mệnh cùng những
sao tốt, bản tánh trở nên bất nhất, lúc chính, lúc tà, lúc tốt lúc xấu, vui buồn
bất chợt khiến cho những người giao tiếp với đương số phải e dè.
Nếu KK hãm địa thủ Mệnh
cùng với những sao xấu thì tánh tình nham hiểm, xảo quyệt, thủ đoạn, hung dữ, bạo
ngược. Mệnh, Thân có KK đắc/hãm thường bị những chứng bệnh về da như mụt nhọt,
ghẻ ngứa vì dị ứng, những chứng bệnh về đường hô hấp như viêm phổi, viêm họng,
hen suyễn, khó thở…
Không Kiếp như con dao hai
lưỡi, càng cao danh vọng thì càng lắm đau thương nên đừng quá tin tưởng vào sự
tốt đẹp của KK khi hai sao này đắc địa, hoặc có những sao khác kiềm chế. Đặc
tính của KK là như vậy, trong cái tốt có ẩn tàng cái xấu, điều mà chúng ta nghĩ
là may mắn thì đó cũng chính là mầm mống của tai họa trong nay mai. Bởi vậy cái
quan niệm thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, xem ra có vẻ thích hợp với mẫu
người KK, cờ đến tay thì phất, có thì hưởng.
Vậy thì những sao nào có thể
kiềm chế nổi hai đại sát tinh này? Nói chung, các văn tinh, sát tinh, quý tinh
không đủ uy lực để chế ngự hai đại sát tinh này mà chỉ có những võ tinh như Sát
Phá Liêm Tham đắc và Thiên Tướng miếu vượng là không sợ KK, cụ thể hơn là Phá
Quân là thủ lĩnh, quản KK nên không ngại KK. Trói buộc được KK chỉ có Tuần Triệt.
Trường hợp đặc biệt là các văn tinh chỉ có Nhật Nguyệt là không sợ các sao
“không” như Thiên Không, Địa Không mà ngược lại, vì ý nghĩa chữ “không” đối với
Nhật Nguyệt là một bầu trời xanh thẳm không gợn áng mây, là điều kiện lý tưởng
cho Nhật Nguyệt tỏa sáng.
Đối với nữ, KK là hai sao bất
hạnh cho đường tình duyên. Nữ mệnh có KK là người cao số, lúc thiếu thời thì
tình duyên lận đận, khi lập gia đình thì khắc chồng, khắc con. Sự xung khắc nặng
hay nhẹ thì vẫn tùy thuộc vào từng lá số và mỗi thời điểm trong cuộc đời, lúc
còn trẻ, nhẹ thì sinh ly, giữa hay cuối đời, nặng thì tử biệt. Nổi bất hạnh của
nữ mệnh có KK còn tùy thuộc vào những sao mà KK đi cùng, như Đào Hồng, Riêu
Thai, Cự Kỵ, Tham Kỵ, gặp KK thì là cách hồng nhan bạc phận mà cũng có thể là bạc
mệnh. Tình duyên trắc trở, việc cưới hỏi gặp nhiều trở ngại, làm kế, làm lẽ,
hai ba đời chồng, bị chồng ruồng rẫy phụ bạc, hay bạo hành vì tai nạn hay vì
tính lẳng lơ, buông thả mà thất trinh, thất tiết. Vì hoàn cảnh hay do mình tự
chọn làm gái giang hồ v.v… đều là những nhịp cầu oan nghiệt mà người đàn bà gặp
những cách vừa nêu trên sẽ phải bước qua. Tuy nhiên các tuổi Thìn, Tuất, Sửu,
Mùi gặp KK thì cuộc đời cũng khá nhiều gian truân nhưng không đến nỗi tan tác
hay trầm luân như những tuổi khác.
Tóm lại, người KK là mẫu
người đa tài, đa năng, đa dạng và cũng đa truân, là mẫu người mà khi bước chân
vào đời đã phải ở trong cái vòng tài mệnh tương đố của tạo hóa. Biệt lệ cho các
tuổi Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì lại có sự ứng hợp, cho nên cuộc đời sẽ chiết giảm
được rất nhiều những điều bất hạnh do Không Kiếp mang đến. Mức độ xấu của người
KK tỷ lệ thuận với độ hãm của KK và của các sao khác ở Mệnh/Thân/Phúc.
MỆNH TUẦN THÂN TRIỆT, MỆNH TRIỆT THÂN TUẦN
Tuần Triệt không đảo ngược
ý nghĩa của các sao trong vòng ảnh hưởng của chúng, mà chỉ giảm bớt những đặc
tính tốt xấu của các sao, cụ thể là làm giảm cái tốt khi sao sáng, và làm giảm
cái xấu khi sao tối. Triệt tác dụng mạnh lúc tiền vận, Tuần tác dụng mạnh lúc hậu
vận.
Đối với người Mệnh Triệt
Thân Tuần thì Thái Thứ Lang cho rằng Mệnh cần phải Vô Chính Diệu thì lúc về già
mới được xứng ý toại lòng
Ảnh hưởng của Tuần Triệt ở
mức độ nào còn tùy thuộc vào ý nghĩa của mỗi sao, hay ý nghĩa của một cách do
nhiều sao hợp lại, chứ không hoàn toàn giống nhau. Chẳng hạn như sao Thiên
Hình, Thiên Mã, Thiên Tướng, Tướng Quân… dù đắc hay hãm cũng tối kỵ Triệt (cũng
kỵ Tuần nhưng không bằng kỵ Triệt) hơn các sao khác bởi vì kiếm gãy, ngựa què,
tướng mất đầu… thì tất nhiên là vô dụng, thậm chí còn nguy hại.
Tương tự, Thất Sát ở Dần
Thân là người anh hùng một mình một kiếm, nhất hô bá ứng, nhưng gặp Triệt lại
trở thành anh hùng gãy kiếm ở tiền vận. Ảnh hưởng của Tuần Triệt đối với chính
tinh có tầm quan trọng hơn đối với các phụ tinh.
Không phải gặp Tuần, Triệt lúc nào cũng là xấu.
Tuần Triệt đôi lúc còn đóng hai vai trò khác nhau, một thiện, một ác. Chẳng hạn
nếu ba cung tam hợp, gọi là tam phương, bị nhiều sát tinh thủ hay hợp chiếu mà
được Triệt đóng thì mọi sự hung hiểm cũng giảm đi rất nhiều. Ngược lại, bốn
cung Mệnh, tài Quan, Di, gọi là Tứ Chính, dù có đắc cách tới đâu nhưng đã gặp
Tuần thì cũng xem như bị phá hết: “Tam phương xung sát hạnh nhất Triệt nhi khả
bằng. Tứ chính giao phù kỵ nhất không chi trực phá.”
Trường hợp cung Mệnh có Triệt
thì ảnh hưởng của Triệt sẽ như thế nào? Cung Mệnh cũng như các cung khác thông
thường có đủ sao xấu và tốt xen lẫn nhau. Có sao đắc địa, có sao hãm địa. Đối với
những sao tốt đắc địa thủ Mệnh, đương số sẽ gặp sự bất lợi vì Triệt sẽ làm mất
hết những ý nghĩa tốt đẹp của các sao này. Sự bất lợi sẽ xảy ra trong thời kỳ
tiền vận của đương số, và sau đó khi uy lực của Triệt yếu dần thì sự tốt đẹp của
các sao tốt sẽ được phục hồi ở một mức độ nào đó mà thôi chứ không thể nào được
100% như trường hợp không bị Triệt. Ngược lại, trong khoảng tiền vận thì đương
số lại được một lợi điểm là, giả sử có những hung tinh hay sát tinh hãm thủ mệnh
thì nhờ ảnh hưởng của Triệt mà đương số tránh được phần lớn những điều không tốt
do các hung sát tinh gây nên. Nhưng từ trung vận trở lên, khi Triệt yếu dần,
không còn đủ uy lực để trói buộc hung sát tinh nữa, và sự tốt xấu lúc đó tùy
thuộc vào công lực của các sao tốt và sao xấu, bên nào mạnh thì chế ngự được
bên đó.
Triệt đóng tại Mệnh thì tiền
vận lao đao lận đận và dễ gặp hoàn cảnh mồ côi sớm. Trường hợp Triệt đóng tại
cung Thân thì ảnh hưởng của Triệt không có gì đáng kể vì uy lực của Triệt mất dần
trong khoảng trung vận và hậu vận, có thể xem Triệt như một áng mây, gây rắc rối
trở ngại cho đương số những lúc khởi sự một việc gì mới mà thôi.
Trường hợp cung Mệnh có Tuần
đóng thì tất cả những gì tốt đẹp do các sao tốt mang đến, cũng như những hung họa
do hung sát tinh gây ra cho đương số đều giảm xuống ở mức trung bình, nhất là ở
hậu vận. Muốn biết cuộc đời của đương số thế nào trong khoảng tiền vận thì
chúng ta phải đặt cả tốt và xấu lên bàn cân. Thường người ta cho rằng Mệnh ứng
với tiền vận, nhưng thật ra Mệnh vẫn là cái gốc của đời người, ảnh hưởng toàn
cuộc đời, chỉ là ở hậu vận (sau 3x tuổi, x là con số của Cục, ví dụ Thổ ngũ Cục
thì x = 5) thì xét thêm Thân. Như vậy, khi Tuần đóng ở Mệnh, thì sau 3x tuổi
cung Mệnh vẫn còn bị Tuần chi phối.
Nếu Tuần đóng tại Thân thì
vấn đề tốt xấu cũng tương tự như trên. Nếu có khác thì trong trường hợp này là
Tuần chỉ chi phối trong khoảng thời gian trung vận và hậu vận mà thôi.
Nếu cả Tuần và Triệt cùng
đóng ở cung Mệnh hay cung Thân thì thế nào? Mệnh có cả Tuần Triệt như một nhà
tù có hai ông cai ngục. Ông chính là Triệt, ông phụ là Tuần. Hết khoảng thời
gian của tiền vận khi Triệt về hưu thì cũng còn ông Tuần cai quản, chứ không hề
nhà giam được bỏ ngỏ. Như vậy cả đời đều bị cản trở, cản trở cái tốt lẫn cái xấu.
Vậy cuộc đời cứ bình bình.
Trường hợp Tuần đóng ở Mệnh
và Triệt đóng ở Thân mà chúng ta thường nghe là mẫu người Mệnh Tuần Thân Triệt,
hay trường hợp Mệnh Triệt Thân Tuần, thì cuộc đời của hai mẫu người này như thế
nào? Để có câu trả lời, cách tốt nhất là chúng ta để lên bàn cân từng phần một
rồi cộng trừ các số thành với nhau để có đáp số cuối cùng. Mệnh có Tuần đóng, nếu
Mệnh tốt thì mức độ chiết giảm do Tuần gây ra tương đối nhẹ nhàng, còn nếu cung
Mệnh xấu, thì sự cứu vãn của Tuần cũng không được bao nhiêu. Qua trung vận và hậu
vận thì ứng vào cung Thân. Nếu cung Thân tốt mà có Triệt đóng thì cũng không
gây ảnh hưởng gì đáng kể, có chăng chỉ là những trở ngại gây rắc rối lúc ban đầu
mà thôi.
Trường hợp nếu cung Thân xấu
thì Triệt ở đây cũng như người nộm dùng để dọa chim chứ không có năng lực gì
đáng kể. Như vậy, nếu người Mệnh Tuần Thân Triệt mà có cung Thân tốt đẹp thì về
già cuộc đời cũng đạt được nhiều mãn nguyện. Đối với trường hợp Mệnh Triệt Thân
Tuần thì cũng tương tự. Mức độ tốt xấu của cung Mệnh sẽ bị chiết giảm nhiều
hơn, và sự ảnh hưởng này chỉ xảy ra trong khoảng tiền vận mà thôi. Rồi từ đó
cho đến hết cuộc đời, ảnh hưởng của sự tốt xấu trên cung Thân chỉ ở mức độ ôn
hòa. Như vậy mẫu người Mệnh Triệt Thân Tuần thì thời gian thử thách nhất là thời
thanh xuân, sau đó, nếu cung Thân tốt đẹp thì cuộc đời tương đối cũng được bình
ổn.
Người Mệnh Thân Tuần Triệt,
nếu cung Mệnh hay cung Thân Vô Chính Diệu mà có Tuần hay Triệt đóng thì tốt
hơn. Hoặc là cung Mệnh vừa có cả Tuần lẫn Triệt vừa thêm hai sao Thiên Không và
Địa Không, tùy theo có bao nhiêu sao Không, chúng ta gọi là cách Mệnh Vô Chính
Diệu đắc nhị không, tam không hay tứ không, bạn xem ở cách Mệnh Vô Chính Diệu
nói ở phần trên. Hoặc là nếu Tuần Triệt đóng tại Mệnh hay Thân mà hai cung này
Vô Chính Diệu lại được Nhật Nguyệt hợp chiếu thì cũng rất tốt đẹp. Ngoài 2 cách
này ra thì nhìn chung nếu cung Mệnh/Thân rất xấu mà có Tuần Triệt thì bớt xấu;
còn nếu rất đẹp mà gặp Tuần + Triệt thì thôi rồi mất hết đẹp.
Triệt đóng Mệnh/Thân thì dễ
“lưng trời gãy gánh”, bay lên thật cao rồi đùng một phát diều đứt dây, cắm đầu
rơi xuống, có thể mệnh vong. Nếu không “lên cao” thì khi “té” cũng không đến nỗi
té đau, tức đời cứ bình bình là tốt.
DỊCH MÃ – THIÊN MÃ THỦ MỆNH/THÂN
Mệnh hay Thân có Thiên Mã tọa
thủ gọi là cách Dịch Mã. Thiên Mã chỉ là một phụ tinh nhưng lại đóng những vai
trò khá quan trọng trong một lá số. Có thể nói từ lá số của một bậc quân vương,
một danh tướng, một thương gia, hay một người bình dân mà đến thời điểm nào đó
trong cuộc đời tạo dựng được những công danh sự nghiệp cho mình thì hầu như lá
số của họ không thể không có sự góp phần của Thiên Mã, lý do thật đơn giản vì
Thiên Mã là biểu tượng của tài năng. Có sách cho rằng Thiên Mã thuộc hành Hỏa
và trong 12 cung của lá số Thiên Mã chỉ đóng ở 4 cung là Dần, Thân, Tỵ, Hợi, và
chỉ đắc địa ở hai cung Dần và Tỵ mà thôi. Cũng có sách cho rằng Thiên Mã có
hành bằng hành của cung nó đóng. Thiên Mã là biểu tượng của chân tay, hoặc
phương tiện di chuyển như xe cộ, tàu bay, tàu hỏa… Đặc tính chủ yếu của người Dịch
Mã là tính năng động, tháo vác, đảm đang, quán xuyến, thích di chuyển, thích
tranh cãi, hay thay cũ đổi mới…
Chữ “dịch” trong Dịch Mã là
xê dịch, chuyển đổi, di chuyển, biến động… do đó cũng có người cho rằng hành của
Thiên Mã thay đổi theo hành của cung mà Thiên Mã tọa thủ. Có nghĩa là, khi Mã tọa
thủ ở Dần (hành Mộc) thì Mã ứng với người mạng Mộc và Hỏa. Ở cung Tỵ thì Mã có
hành Hỏa và ứng cho người mạng Hỏa và Thổ. Khi ở cung Thân thì Thiên Mã có hành
Kim và ứng với người mạng Kim và Thủy. Ở cung Hợi thì Thiên Mã có hành Thủy và ứng
với người mạng Thủy và Mộc. Như vậy, khi hành của Thiên Mã ứng hợp với hành của
Mệnh thì đương số là người có tài năng và có hoàn cảnh cơ hội để thi thố hết
tài năng của mình. Còn ngược lại thì tuy có tài, có nghị lực nhưng cuộc đời lại
không được những vận hội may mắn, không được đời biết đến khiến cho tài năng phải
bị mai một như một kẻ sinh bất phùng thời.
+ Cách Phù Dư Mã: người có
Mệnh an ở hai cung Dần Thân có Tử Phủ và Thiên Mã tọa thủ đồng cung gọi là cách
Phù Dư Mã, là ngựa kéo xe cho Vua chỉ những người có tài năng, giữ những chức vụ
cố vấn, phụ tá cho các cấp chỉ huy của một đơn vị quân đội, hay giám đốc của một
cơ sở hành chánh, thương mại… Hoặc cũng có thể là những người không giữ một chức
vụ gì chính thức nhưng ra đời thường được kề cận với những người có quyền thế
trong xã hội.
+ Cách Thư Hùng Mã: người
có Thiên Mã thủ Mệnh và có Nhật Nguyệt đồng cung hay hợp chiếu là cách Thư Hùng
Mã. Một đôi ngựa tốt, chỉ người văn võ song toàn, nhưng cách này thường phát về
văn nghiệp hơn là võ nghiệp. Đây là mẫu người có kiến thức sâu rộng, có trình độ
học vấn, có năng khiếu về các ngành như ngoại giao, chính trị, văn học và nghệ
thuật. Nếu đã đi vào những lãnh vực vừa nêu trên thì mẫu người Thư Hùng Mã này
sẽ đạt được những công danh sự nghiệp một cách dễ dàng, và có người có thể
thành công trên cả hai lĩnh vực cùng một lúc, chẳng hạn họ có thể là một nghệ
sĩ nổi danh lại vừa giàu có nhờ làm thương mại.
+ Cách Chiết Tiễn, Lộc Mã
Giao Trì: người có Thiên Mã gặp Lộc Tồn đồng cung là cách Chiết Tiễn, có nghĩa
là bẻ roi đánh ngựa, giục ngựa lên đường, chỉ người có tài. Khởi sự làm gì cũng
được may mắn thuận lợi. Nếu Thiên Mã ở Mệnh có Lộc Tồn ở Di xung chiếu thì đây
là cách Lộc Mã Giao Trì, ngựa ăn cỏ trên cách đồng xanh, là người được vận hội
may mắn, được thừa hưởng những công lao thành qủa của người khác làm. Và theo ý
nghĩa của Lộc Tồn là lộc trời cho, nên cả hai cách vừa nêu trên cũng chỉ những
người trở nên giàu có nhờ trúng số, hoặc được thừa hưởng tài sản của ông bà,
cha mẹ để lại. Người có Lộc Mã mưu sự chuyện gì hãy nên mạnh dạn vì thường được
may mắn.
+ Cách Chiến Mã: người có
Thiên Mã thủ Mệnh gặp Hỏa hay Linh là Chiến Mã, ngựa xuất trận. Cách này chỉ
người có tài năng là thường là phát về võ nghiệp nếu gặp một lá số tốt. Đây là
số của những quân nhân được thăng cấp rất nhanh chóng. Cách Chiến Mã tiềm tàng
những tai họa về chân tay như thương tật hay tàn khuyết nếu không có những cách
hóa giải. Nếu đủ bộ Mã Hỏa Linh thì có thể tay chân bị tê bại từ nhỏ, hoặc bị bại
liệt do các chứng bệnh khác đưa đến như bị tai biến mạch máu não, tiểu đường
v.v…
+ Cách Mã Khốc Khách: người
có Thiên Mã thủ Mệnh gặp Thiên Khốc, Điếu Khách là cách Mã Khốc Khách, có nghĩa
là ngựa đeo lục lạc vàng, chỉ những người có tài năng, có danh tiếng trong một
lãnh vực nào đó. Hạn gặp Mã Khốc Khách thì vận hội may mắn đã đến, là thời điểm
mà danh tiếng của mình được người đời biết đến. Đối với một lá số trung bình
thì đương số cũng gặp được những cơ hội may mắn như được cấp trên giao phó công
việc và được tín nhiệm hay thăng thưởng do khả năng và thành quả tốt của mình.
+ Cách Phi Mã: người có
Thiên Mã thủ Mệnh gặp Phi Liêm đồng cung hay xung chiếu gọi là cách Phi Mã, là
ngựa có cánh bay như trong truyện thần thoại của Hy Lạp, ý nghĩa cũng tương tự
như Mã Khốc Khách, chỉ người có tài năng và được nhiều may mắn, làm việc gì
cũng thành chông dễ dàng và nhanh chóng. Hạn gặp Phi Mã là có sự thay đổi, hoặc
di chuyển. Nếu khởi sự một điều gì trong hạn này thì chớ có ngần ngại vi Phi Mã
đáo hạn là thời cơ đã đến. Người có cách Phi Mã thường thích hợp với những công
việc đi đây đi đó, cuộc đời là những chuyến hành trình không dứt.
+ Cách Phù Thi Mã: Thiên Mã
thủ Mệnh gặp Thiên Hình đồng cung là cách Phù Thi Mã, là ngựa kéo xe tang. Người
có cách này suốt đời cực khổ, làm việc gì cũng khó khăn trắc trở, thành ít bại
nhiều, và thường gặp toàn những chuyện xui xẻo, đau thương, buồn khổ, tang tóc
triền miên. Hạn gặp Mã Hình thì phải hết sức thận trọng trong mọi việc, vì những
gì sẽ đến trong thời gian này chỉ là những chuyện buồn hoặc ngoài sự mong đợi của
mình.
+ Cách Mã Đà hay Chiết Túc
Mã: Thiên Mã thủ Mệnh gặp Đà La đồng cung gọi là Mã Đà hay Chiết Túc Mã, tức là
ngựa què, chỉ những người không được may mắn, hay gặp khó khăn trắc trở. Cuộc đời
nhìn chung toàn là những lao đao lận đận. Cùng là một việc, người khác làm thì
thuận lợi may mắn, mình làm thì khó khăn, trở ngại.
+ Cách Mã Tuyệt, Cùng Đồ
Mã, Tử Mã: Thiên Mã thủ Mệnh gặp Tuyệt đồng cung gọi là Mã Tuyệt hay Cùng Đồ
Mã, nghĩa là ngựa chạy đến đường cùng, chỉ người làm việc thường thất bại, cuộc
đời thường lâm vào cảnh bế tắc. Tương tự nếu Mã thủ Mệnh gặp Tuần, Triệt gọi là
Tử Mã, nghĩa là ngựa chết, ngựa vô dụng, ý nghĩa và tai họa còn nặng hơn Cùng Đồ
Mã.
Những cách nói trên là chỉ
bàn đến Thiên Mã và một vài sao. Để có thể khẳng định sự tốt xấu cần phải xem
toàn diện lá số, đặc biệt các cung Mệnh, Thân, Phúc, Di, Tài, Quan rồi mới có
thể khẳng định. Cần tránh trường hợp “thầy bói xem voi” tức chỉ dựa vào 1-2 yếu
tố rồi “phán”, sẽ rất phiến diện, và rất có thể không đúng.
Thiên Mã còn có lưu tinh
(sao lưu) khi xem hạn, đó cũng là ý nghĩa thứ ba của chữ “Dịch” khi gọi Thiên
Mã là Dịch Mã. Khi xem hạn, nếu thấy Thiên Mã và Lưu Thiên Mã đồng cung, xung
chiếu hay hợp chiếu thì những điều sau đây sẽ xảy đến trong vận hạn: mua xe, đổi
xe, đổi chổ ở, đổi việc làm, đi du lịch… Có thể chỉ xảy ra một sự việc mà thôi,
đặc biệt sự đổi thay liên quan đến lĩnh vực của cung đó, nhưng cũng rất có thể
xảy ra hai sự việc cùng một lúc. Mức độ tốt xấu của sự việc còn tùy thuộc vào
những sao chi phối trong hạn đó. Có thể là bị mất việc (không tốt) phải tìm việc
khác. Cũng có thể vì được thăng chức nên phải giữ công việc khác (tốt). Và lưu
Thiên Mã ở cung nào thì sẽ có thay đổi liên quan đến lĩnh vực đó, nếu có Thiên
Mã cố định đồng cung, hội hợp hay xung chiếu thì càng khẳng định sự thay đổi
hơn.
Tóm lại, chúng ta phải cân
nhắc là hành của Thiên Mã và hành của bản Mệnh. Nếu cả hai cùng hành, hoặc hành
của Mã sinh cho hành của bản Mệnh thì Mã này mới là Mã của mình; ngược lại nếu
không đồng hành thì Mã này chỉ là cái bóng mà thôi. Người có Thiên Mã không hợp
với bản Mệnh thì cũng là người có tài năng nhưng tánh tình rụt rè, nhút nhát,
thiếu lòng tin, và không có ý chí phấn đấu để nắm lấy cơ hội, cho nên cuối cùng
dễ trở thành bất đắc chí.
Với một lá số trung bình trở
lên thì người Dịch Mã là người đa tài. Họ có nhiều năng khiếu nổi bật và có thể
thành công trên nhiều lãnh vực khác nhau. Họ là những người năng động, thích sự
đổi thay và sự “động” này làm cho họ thành công hơn.
ĐA TÀI ĐA NĂNG: TANG/HỔ THỦ MỆNH
Hai sao Tang Môn, Bạch Hổ
là hai bại tinh trong nhóm lục bại. Tuy là hai bại tinh nhưng người Tang Hổ
không phải là người bất tài vô tướng theo cái ý nghĩa mà chúng ta vừa nói đến,
ngược lại, có rất nhiều người đã thành danh cũng nhờ vào hai sao Tang Hổ.
Tang Môn thuộc hành Mộc. Bạch
Hổ thuộc hành Kim, cả hai đắc địa tại Dần Thân Mão Dậu. Hai sao này lúc nào
cũng đi đôi với nhau ở vị trí xung chiếu. Tang Hổ đắc địa thủ mệnh là người gan
dạ, cương quyết và ngay thẳng. Người Tang Hổ có đủ sự gan lì để thi gan cùng
nghịch cảnh, có thể xem đây là khả năng Trời phú dành riêng cho họ vì cuộc đời
của họ kể từ lúc lọt lòng mẹ đã đầy thử thách dành chờ sẵn rồi. Người Tang Hổ
thường chịu cảnh mồ côi từ lúc còn bé, nếu không thì tuổi thơ ấu cũng phài chịu
cảnh xa cha mẹ, gia đình ly tán, thiếu tình thương và sự đùm bọc của cha mẹ,
anh chị. Phải chăng vì vậy mà người Tang Hổ luôn có một nét buồn sâu kín trên
khuôn mặt, và nét buồn này sâu đậm nhất trong khoảng thời gian của tuổi thanh
xuân tức là khoảng tiền vận rồi sau đó sẽ phai nhạt dần. Để bù trừ cho những bất
hạnh đó, người có Tang Hổ đắc địa là người đa tài đa năng. Tuy tính tình cương
quyết và đôi khi trở thành ương ngạnh nhưng họ là người quyền biến và có khả
năng giải quyết công việc cho thích ứng với hoàn cảnh. Năng khiếu nổi bậc nhất
của họ là sự suy luận và phán đoán rất sắc bén; có khả năng hùng biện cũng như
khả năng thuyết phục người khác, vì vậy những lãnh vực về chính trị, ngoại giao
và luật pháp đều là những sở trường của người Tang Hổ.
Tang Hổ hãm địa thủ mệnh
thì cuộc đời luôn gặp nhiều nghịch cảnh đau thương, ngang trái. Nếu không làm
những ngành nghề như cảnh sát, toà án, luật sư… thì dễ vướng vào vòng tù tội và
tuổi thọ cũng ngắn ngủi. Về vấn đề bệnh tật, nói chung cả nam lẫn nữ, dù đắc
hay hãm, người Tang Hổ thường hay bị đau ốm bệnh tật, nhất là những bệnh về
xương, máu như cao huyết áp, mỡ trong máu… Riêng nữ mệnh thì nét mặt u sầu,
chưa lập gia đình thì tình duyên trắc trở, lận đận, khi có gia đình rồi lại khắc
chồng khắc con, nếu gặp thêm Thiên Riêu thì mức độ hình khắc có thể thành sát
Phối; nếu lập gia đình muộn cũng có thể chế giải được phần nào. Nữ mệnh Tang Hổ
thì vấn đề sinh nở thường hay gặp khó khăn, khi có con thì lại khổ vì con cái
và dễ mắc những bệnh về các bộ phận sinh sản như tử cung, buồng trứng… Ngoài
ra, người Tang Hổ, dù nam hay nữ, lúc còn trẻ không có tay nuôi súc vật, sau đó
giảm dần.
Mệnh an tại Dần có Bạch Hổ
là cách Hổ Cư Hổ Vị là cọp trong rừng sâu. Đây chỉ người có tài, có địa vị, quyền
uy, và thường phát về võ nghiệp. Mệnh an tại Mão có Bạch Hổ là cách Hổ Xuất Sơn
Lâm. Cung Mão thuộc phương đông, là thời gian của bình minh, là thời điểm bắt đầu
của một ngày, ánh mặt trời vừa rực rỡ biểu tượng cho một vận hội tốt đẹp đang
chờ đón. Cho nên người đắc cách này cuộc đời thường hay gặp được những may mắn
đưa đến sự thành công dễ dàng. Bạch Hổ ở hai vị trí Mão Dậu còn gọi là cách “tứ
phương củng phục anh hùng” chỉ người có khả năng lãnh đạo, thâu phục được anh
hùng hào kiệt bốn phương.
Người mệnh an tại Dậu có Bạch
Hổ là cách Hổ Khiếu Tây Phương. Cung Dậu thuộc phương Tây, là thời gian của
hoàng hôn vì vậy có người cho rằng Bạch Hổ ở Dậu không tác hại vì đó là lúc cọp
đã ăn no nên vào sâu trong rừng mà ngủ. Hai chữ Tây Phương còn có hàm ý là “cõi
Phật”: Khiếu Tây Phương là hướng về phương Tây là lạy, cũng có nghĩa là có lòng
hướng Phật. Người có cách này là người có tánh tình nhân hậu và thường có
khuynh hướng tôn giáo mạnh mẽ. Chỉ nói riêng về lĩnh vực tâm linh thì người Bạch
Hổ Khiếu Tây Phương có phần nào giống người Tử Tham Mão Dậu.
Trong hai sao Tang Hổ thì Hổ
có tầm ảnh hưởng đáng kể hơn Tang, ví dụ Hổ đi với Tấu là Hổ mang hòm sách chỉ
người có số khoa bảng, học rộng hiểu nhiều. Hổ gặp Phi Liêm (Phi Hổ) như Hổ mọc
thêm cánh, cách này giống như Phi Mã, chỉ những người thường gặp được các vận hội
may mắn đưa đến sự thành công rất dễ dàng trong cuộc đời. Hạn gặp Phi Hổ hay
Phi Mã là vận may đang đến, nếu dự tính điều gì thì nên mạnh dạn xúc tiến, thi
cử sẽ đỗ đạt, tìm việc làm sẽ được như ý, có việc rồi thì sẽ được thăng chức
thăng lương…
Bạch Hổ là một trong Tứ Linh
(Long Phượng Hổ Cái). Mệnh, Quan, Phúc, Di đắc Tứ Linh thì đường công danh thuận
lợi và có địa vị trong xã hội. Bộ Tứ Linh cũng chế giải được phần nào những tai
họa do các hung sát tinh gây ra. Hạn Tứ Linh tốt cho công danh.
Bạch Hổ và Thiên Hình hay Kình
Dương đồng cung thủ Mệnh là cách “hổ hàm kiếm” (Hổ ngậm kiếm) chỉ người gan dạ,
oai dũng, có tư cách và chí khí, nếu có thêm những võ tinh hội họp thì đường
binh nghiệp sẽ phát rất nhanh.
Tang Hổ cũng có những sao
lưu. Hạn có Tang Hổ, gặp Lưu Tang, Lưu Hổ là có tang trong hạn đó. Tang Hổ nhập
hạn gặp Khốc Hư (lưu, và cố định) cũng cùng một ý nghĩa. Ngoài việc có tang, hạn
gặp Tang Hổ cũng nên đề phòng tai nạn và bệnh tật, nhất là những chứng bệnh về
máu huyết và bệnh về xương như đau khớp, rỗng xương… Đàn bà lúc có thai và sinh
nở mà hạn gặp Tang Hổ cũng nên đề phòng việc sinh khó hoặc hư thai.
LƯNG TRỜI GÃY CÁNH: THIÊN KHÔNG CƯ MỆNH
Thiên Không rất đáng lưu ý
khi giải đoán nhất là lúc xem hạn. Ngoài những ý nghĩa căn bản của một ác tinh
Thiên Không còn mang nhiều sắc thái đối nghịch nhau rất lý thú mà chúng ta phải
cân nhắc thận trọng khi giải đoán một lá số có Thiên Không thủ Mệnh để khỏi đi
đến những kết luận sai lầm đáng tiếc.
Thiên Không thuộc hành Hỏa,
đắc địa ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi và đó cũng là nơi đắc địa của Không Kiếp; tại những
vị trí này Thiên Không sẽ có uy lực không kém gì Không Kiếp, và cũng như Không
Kiếp, Thiên Không chủ sự phá tán, thất bại, gãy đổ nửa chừng. Người có Thiên
Không hãm địa thủ mệnh thì tính xảo quyệt, chuyên dùng sự gian dối, thủ đoạn để
ăn ở với người, để mưu sự với đời, nhưng rốt cuộc cũng không làm được việc gì
ngoài những trò tiểu xảo hầu thủ lợi cho cá nhân mình, nhưng chung cuộc thì
cũng tự hại mình mà thôi.
Người có Thiên Không đắc địa
thủ mệnh tính tình táo bạo, thăng trầm, túc trí đa mưu, thích toan tính những
chuyện lớn lao, nhưng nếu không có những sao chế giải thì từ anh hùng trở thành
gian hùng dễ như trở bàn tay. Bởi vậy, như đã nói ở trên, ý nghĩa lý thú của
Thiên Không là chúng ta có thể ví người Thiên Không là người “nhị trùng bản
ngã” (2 mặt). Trong con người Thiên Không có một người thiện, một người ác, có
chính, có tà… Một lá số với cách cục tốt đẹp nào đó khiến chúng ta kết luận
đương số là anh hùng, nhưng cẩn thận, anh hùng có thể là gian hùng nếu có thêm
Thiên Không đồng thủ mệnh.
Đặc tính thứ nhì của Thiên
Không hiểu theo triết lý nhà Phật thì Thiên Không còn có ý nghĩa “sắc sắc không
không”. Cho nên, người có Thiên Không đắc địa thủ mệnh gần giống với mẫu người
Tử Tham Mão Dậu, bẩm sinh từ lúc còn trẻ đã có khuynh hướng yếm thế, có những ý
nghĩ và cuộc sống gần gũi với tôn giáo. Cái khổ của người Thiên Không là sự dằn
vặt trong nội tâm bởi hai cánh tay của Thiên Không, một thiện một ác, một chánh
một tà, một đời một đạo, lôi kéo, giằng co cả cuộc đời: “Mệnh tọa Thiên Không định
xuất gia” có nghĩa lòng chỉ muốn xa lánh cõi đời, nhưng thực hiện được hay
không còn tùy thuộc vào những sao phối hợp mà chúng ta đề cập bên dưới.
Với lá số Thiên Không lại
càng nên thận trọng hơn đối với hai sao Đào Hồng, là biểu tượng cho sắc đẹp,
nghệ thuật và nhất là nữ. Cần phân biệt:
+Đối với nam, Thiên Không
biểu tượng cho bản chất của đương số, và Đào Hoa là đối tượng đeo đuổi. Cho nên
nam phái có Thiên Không và Đào Hoa ở mệnh là người đào hoa và biết dùng những
ưu điểm trời phú cho mình như nhân dáng, lời ăn, tiếng nói ngọt ngào, địa vị,
quyền thế… nói chung là dùng mọi khả năng quyến rũ của mình dễ lợi dụng đàn bà
vào một mục đích nào đó. Nếu gặp thêm những sao như Phục Binh, Quan Phù, Quan
Phủ… thì mức độ lợi dụng sẽ đi đến chuyện dụ dỗ, lừa gạt, phản bội trắng trợn.
+Đối với nữ, Đào Hoa là biểu
tượng chính của đương số, là cánh hoa biết nói, còn Thiên Không là lửa trên trời.
Đào Hoa gặp lửa thì làm sao không khô héo? Bởi vậy, nữ phái gặp cách này là người
có nhan sắc nhưng lại không có duyên. Chữ duyên ở đây bao hàm cả hai ý nghĩa: sự
duyên dáng và duyên phận. Hữu sắc vô hương, vì vậy mà Đào Hoa ngộ Thiên Không
thì duyên kiếp phải bẽ bàng, chứ không hẳn có sức quyến rũ nam phái.
Mệnh có Thiên Không, Hồng
Loan là người có tư cách thanh cao, thích an nhàn, ẩn dật, và khuynh hướng xa
lánh trần tục rất rõ ràng.
Thiên Không thủ mệnh hay gặp
sự thất bại, sự đổ gãy nửa chừng của người có. Sự gãy đổ này có thể xảy ra trên
mọi lãnh vực từ công danh, sự nghiệp cho đến chuyện tình cảm gia đạo v.v… Bởi vậy,
chúng ta có thể gọi người Thiên Không thủ Mệnh là mẫu người Bán Thiên Triết Sỉ
(Lưng Trời Gãy Cánh).
Người có cách Tham Vũ Đồng
Hành là người làm nên sự nghiệp từ thương trường, nhưng nếu mệnh có Thiên Không
thì chắc chắn thì đương số ít nhất cũng phải một lần thất bại đau thương rồi mới
làm nên sự nghiệp. Tùy theo mỗi lá số, có người đổ vỡ trên đường công danh, hay
trên đường tình ái… việc tu hành cũng không phải là con đường nhẹ nhàng đối với
những người đã có lòng thoát tục; nên cuối cùng họ đành chấp nhận cuộc sống nửa
đời nửa đạo, hoặc là bỏ đạo trở lại với đời.
Khi Thiên Không nhập hạn: tốt
nhất là khoanh tay ngồi yên, chớ mưu tính chuyện gì cho tốn công phí sức (dù có
mưu cầu toan tính tới đâu thì cũng dang dở). Nếu gặp hạn xấu thì kết quả có thể
còn tệ hại hơn, kể cả chuyện tán gia bại sản hay gia đình ly tán. Tác hại của
Thiên Không sẽ nhẹ nhàng hơn đối với những người Mệnh Vô Chính Diệu (vốn đã là
“không” nếu gặp thêm không nữa thì cũng không gì đáng ngại). Nhật Nguyệt thủ mệnh
cũng không sợ Thiên Không vì hai vầng nhật nguyệt lại càng sáng dưới bầu trời
không gợn áng mây. Hoặc Hóa Khoa đồng cung với Thiên Không cũng hạn chế cái
“Không” của Thiên Không.
Người Thiên Không: cho dù
hôm nay có làm nên công danh sự nghiệp, có quyền cao chức trọng, thì chung cuộc
cũng hai bàn tay trắng, nếu có Hóa Khoa đồng cung thì không đến nỗi toàn
“Không”.
0 Comments