Mệnh hay Thân có Thiên Mã tọa thủ gọi là cách Dịch Mã.
Thiên Mã chỉ là một phụ tinh nhưng lại đóng những vai trò khá quan trọng trong
một lá số. Có thể nói từ lá số của một bậc quân vương, một danh tướng, một
thương gia, hay một người bình dân mà đến thời điểm nào đó trong cuộc đời tạo
dựng được những công danh sự nghiệp cho mình thì hầu như lá số của họ không thể
không có sự góp phần của Thiên Mã, lý do thật đơn giản vì Thiên Mã là biểu
tượng của tài năng. Có sách cho rằng Thiên Mã thuộc hành Hỏa và trong 12 cung
của lá số Thiên Mã chỉ đóng ở 4 cung là Dần, Thân, Tỵ, Hợi, và chỉ đắc địa ở
hai cung Dần và Tỵ mà thôi. Cũng có sách cho rằng Thiên Mã có hành bằng hành
của cung nó đóng. Thiên Mã là biểu tượng của chân tay, hoặc phương tiện di
chuyển như xe cộ, tàu bay, tàu hỏa… Đặc tính chủ yếu của người Dịch Mã là tính
năng động, tháo vác, đảm đang, quán xuyến, thích di chuyển, thích tranh cãi,
hay thay cũ đổi mới…
Chữ “dịch” trong Dịch Mã là xê dịch, chuyển đổi, di
chuyển, biến động… do đó cũng có người cho rằng hành của Thiên Mã thay đổi theo
hành của cung mà Thiên Mã tọa thủ. Có nghĩa là, khi Mã tọa thủ ở Dần (hành Mộc)
thì Mã ứng với người mạng Mộc và Hỏa. Ở cung Tỵ thì Mã có hành Hỏa và ứng cho
người mạng Hỏa và Thổ. Khi ở cung Thân thì Thiên Mã có hành Kim và ứng với
người mạng Kim và Thủy. Ở cung Hợi thì Thiên Mã có hành Thủy và ứng với người
mạng Thủy và Mộc. Như vậy, khi hành của Thiên Mã ứng hợp với hành của Mệnh thì
đương số là người có tài năng và có hoàn cảnh cơ hội để thi thố hết tài năng
của mình. Còn ngược lại thì tuy có tài, có nghị lực nhưng cuộc đời lại không
được những vận hội may mắn, không được đời biết đến khiến cho tài năng phải bị
mai một như một kẻ sinh bất phùng thời.
+ Cách Phù Dư Mã: người có Mệnh an ở hai cung Dần Thân
có Tử Phủ và Thiên Mã tọa thủ đồng cung gọi là cách Phù Dư Mã, là ngựa kéo xe
cho Vua chỉ những người có tài năng, giữ những chức vụ cố vấn, phụ tá cho các
cấp chỉ huy của một đơn vị quân đội, hay giám đốc của một cơ sở hành chánh,
thương mại… Hoặc cũng có thể là những người không giữ một chức vụ gì chính thức
nhưng ra đời thường được kề cận với những người có quyền thế trong xã hội.
+ Cách Thư Hùng Mã: người có Thiên Mã thủ Mệnh và có
Nhật Nguyệt đồng cung hay hợp chiếu là cách Thư Hùng Mã. Một đôi ngựa tốt, chỉ
người văn võ song toàn, nhưng cách này thường phát về văn nghiệp hơn là võ
nghiệp. Đây là mẫu người có kiến thức sâu rộng, có trình độ học vấn, có năng
khiếu về các ngành như ngoại giao, chính trị, văn học và nghệ thuật. Nếu đã đi
vào những lãnh vực vừa nêu trên thì mẫu người Thư Hùng Mã này sẽ đạt được những
công danh sự nghiệp một cách dễ dàng, và có người có thể thành công trên cả hai
lĩnh vực cùng một lúc, chẳng hạn họ có thể là một nghệ sĩ nổi danh lại vừa giàu
có nhờ làm thương mại.
+ Cách Chiết Tiễn, Lộc Mã Giao Trì: người có Thiên Mã
gặp Lộc Tồn đồng cung là cách Chiết Tiễn, có nghĩa là bẻ roi đánh ngựa, giục
ngựa lên đường, chỉ người có tài. Khởi sự làm gì cũng được may mắn thuận lợi.
Nếu Thiên Mã ở Mệnh có Lộc Tồn ở Di xung chiếu thì đây là cách Lộc Mã Giao Trì,
ngựa ăn cỏ trên cách đồng xanh, là người được vận hội may mắn, được thừa hưởng
những công lao thành qủa của người khác làm. Và theo ý nghĩa của Lộc Tồn là lộc
trời cho, nên cả hai cách vừa nêu trên cũng chỉ những người trở nên giàu có nhờ
trúng số, hoặc được thừa hưởng tài sản của ông bà, cha mẹ để lại. Người có Lộc
Mã mưu sự chuyện gì hãy nên mạnh dạn vì thường được may mắn.
+ Cách Chiến Mã: người có Thiên Mã thủ Mệnh gặp Hỏa
hay Linh là Chiến Mã, ngựa xuất trận. Cách này chỉ người có tài năng là thường
là phát về võ nghiệp nếu gặp một lá số tốt. Đây là số của những quân nhân được
thăng cấp rất nhanh chóng. Cách Chiến Mã tiềm tàng những tai họa về chân tay
như thương tật hay tàn khuyết nếu không có những cách hóa giải. Nếu đủ bộ Mã
Hỏa Linh thì có thể tay chân bị tê bại từ nhỏ, hoặc bị bại liệt do các chứng
bệnh khác đưa đến như bị tai biến mạch máu não, tiểu đường v.v…
+ Cách Mã Khốc Khách: người có Thiên Mã thủ Mệnh gặp
Thiên Khốc, Điếu Khách là cách Mã Khốc Khách, có nghĩa là ngựa đeo lục lạc
vàng, chỉ những người có tài năng, có danh tiếng trong một lãnh vực nào đó. Hạn
gặp Mã Khốc Khách thì vận hội may mắn đã đến, là thời điểm mà danh tiếng của
mình được người đời biết đến. Đối với một lá số trung bình thì đương số cũng
gặp được những cơ hội may mắn như được cấp trên giao phó công việc và được tín
nhiệm hay thăng thưởng do khả năng và thành quả tốt của mình.
+ Cách Phi Mã: người có Thiên Mã thủ Mệnh gặp Phi Liêm
đồng cung hay xung chiếu gọi là cách Phi Mã, là ngựa có cánh bay như trong
truyện thần thoại của Hy Lạp, ý nghĩa cũng tương tự như Mã Khốc Khách, chỉ
người có tài năng và được nhiều may mắn, làm việc gì cũng thành chông dễ dàng
và nhanh chóng. Hạn gặp Phi Mã là có sự thay đổi, hoặc di chuyển. Nếu khởi sự
một điều gì trong hạn này thì chớ có ngần ngại vi Phi Mã đáo hạn là thời cơ đã
đến. Người có cách Phi Mã thường thích hợp với những công việc đi đây đi đó,
cuộc đời là những chuyến hành trình không dứt.
+ Cách Phù Thi Mã: Thiên Mã thủ Mệnh gặp Thiên Hình
đồng cung là cách Phù Thi Mã, là ngựa kéo xe tang. Người có cách này suốt đời
cực khổ, làm việc gì cũng khó khăn trắc trở, thành ít bại nhiều, và thường gặp
toàn những chuyện xui xẻo, đau thương, buồn khổ, tang tóc triền miên. Hạn gặp
Mã Hình thì phải hết sức thận trọng trong mọi việc, vì những gì sẽ đến trong
thời gian này chỉ là những chuyện buồn hoặc ngoài sự mong đợi của mình.
+ Cách Mã Đà hay Chiết Túc Mã: Thiên Mã thủ Mệnh gặp
Đà La đồng cung gọi là Mã Đà hay Chiết Túc Mã, tức là ngựa què, chỉ những người
không được may mắn, hay gặp khó khăn trắc trở. Cuộc đời nhìn chung toàn là
những lao đao lận đận. Cùng là một việc, người khác làm thì thuận lợi may mắn,
mình làm thì khó khăn, trở ngại.
+ Cách Mã Tuyệt, Cùng Đồ Mã, Tử Mã: Thiên Mã thủ Mệnh
gặp Tuyệt đồng cung gọi là Mã Tuyệt hay Cùng Đồ Mã, nghĩa là ngựa chạy đến
đường cùng, chỉ người làm việc thường thất bại, cuộc đời thường lâm vào cảnh bế
tắc. Tương tự nếu Mã thủ Mệnh gặp Tuần, Triệt gọi là Tử Mã, nghĩa là ngựa chết,
ngựa vô dụng, ý nghĩa và tai họa còn nặng hơn Cùng Đồ Mã.
Những cách nói trên là chỉ bàn đến Thiên Mã và một vài
sao. Để có thể khẳng định sự tốt xấu cần phải xem toàn diện lá số, đặc biệt các
cung Mệnh, Thân, Phúc, Di, Tài, Quan rồi mới có thể khẳng định. Cần tránh
trường hợp “thầy bói mù sờ voi” tức chỉ dựa vào 1-2 yếu tố rồi “phán”, sẽ rất
phiến diện, và rất có thể không đúng.
Thiên Mã còn có lưu tinh (sao lưu) khi xem hạn, đó
cũng là ý nghĩa thứ ba của chữ “Dịch” khi gọi Thiên Mã là Dịch Mã. Khi xem hạn,
nếu thấy Thiên Mã và Lưu Thiên Mã đồng cung, xung chiếu hay hợp chiếu thì những
điều sau đây sẽ xảy đến trong vận hạn: mua xe, đổi xe, đổi chổ ở, đổi việc làm,
đi du lịch v.v… Có thể chỉ xảy ra một sự việc mà thôi, đặc biệt sự đổi thay
liên quan đến lĩnh vực của cung đó, nhưng cũng rất có thể xảy ra hai sự việc
cùng một lúc. Mức độ tốt xấu của sự việc còn tùy thuộc vào những sao chi phối
trong hạn đó. Có thể là bị mất việc (không tốt) phải tìm việc khác. Cũng có thể
vì được thăng chức nên phải giữ công việc khác (tốt). Và lưu Thiên Mã ở cung
nào thì sẽ có thay đổi liên quan đến lĩnh vực đó, nếu có Thiên Mã cố định đồng
cung, hội hợp hay xung chiếu thì càng khẳng định sự thay đổi hơn.
Tóm lại, khi nói đến Thiên Mã điều quan trọng mà chúng
ta phải cân nhắc là hành của Thiên Mã và hành của bản Mệnh. Nếu cả hai cùng
hành, hoặc hành của Mã sinh cho hành của bản Mệnh thì Mã này mới là Mã của
mình; ngược lại nếu không đồng hành thì Mã này chỉ là cái bóng mà thôi. Người
có Thiên Mã không hợp với bản Mệnh thì cũng là người có tài năng nhưng tánh
tình rụt rè, nhút nhát, thiếu lòng tin, và không có ý chí phấn đấu để nắm lấy
cơ hội, cho nên cuối cùng dễ trở thành bất đắc chí.
Với một lá số trung bình trở lên thì người Dịch Mã là
người đa tài. Họ có nhiều năng khiếu nổi bật và có thể thành công trên nhiều
lãnh vực khác nhau. Họ là những người năng động, thích sự đổi thay và sự “động”
này làm cho họ thành công hơn.
Xem thêm các Sao và Cách cục khác TẠI ĐÂY


0 Comments