Người có Nhật thủ Mệnh là người rất năng động, có phần
nóng nảy. Người có Nguyệt thủ Mệnh thường mang tính đa sầu, đa cảm. Nhật thuộc
nam đẩu tinh, hành Hỏa, miếu địa ở Tỵ, Ngọ tức là mặt trời vào lúc giữa trưa,
và vượng địa ở Dần, Mão, tức là mặt trời lúc bình minh. Ở 4 vị trí trên, Nhật
chủ về sự thông minh, lòng nhân đức, tài và uy quyền.
Nhật rất hợp với người Dương Nam, Dương Nữ, và những
người sinh vào ban ngày. Nguyệt thuộc bắc đẩu tinh, hành Thủy, miếu địa ở Dậu,
Tuất, Hợi, là lúc mặt trăng tỏa sáng nửa đêm, vượng địa ở hai cung Thân (lúc
trăng mới mọc), và Tí (lúc trăng sắp tàn). Ở những vị trí miếu vượng Nguyệt là
sự nhân từ, tánh đa sầu, đa cảm và lãng mạn, có khiếu về văn chương, nghệ
thuật, đồng thời Nguyệt cũng chủ sự giàu có về điền sản như nhà cửa, đất đai…
Nguyệt đặc biệt phò trì cho người Âm Nam, Âm Nữ, những người mạng Mộc, Thủy, và
người sinh vào ban đêm, nhất là sinh vào những đêm trăng tròn 15, 16 thì càng
tuyệt hảo.
Trong cơ thể, Nhật Nguyệt tượng trưng cho đôi mắt.
Trong gia đình, Nhật là ông, là cha, là chồng, Nguyệt là bà, là Mẹ, là vợ… Điều
này rất rõ khi cung hạn có Nhật hay Nguyệt tọa thủ thì những gì xảy ra trong
hạn đó không những là cho chính bản thân của mình mà còn nói lên những sự việc
xảy ra cho chồng, cho vợ, cha mẹ, ông bà của đương số nữa. Sự biểu tượng này
cũng nói lên tình cảm hay sự gần gũi mật thiết trong cuộc sống giữa người con
đối với cha hay mẹ. Chẳng hạn một người có Nhật thủ Mệnh thì người này chịu ảnh
hưởng tánh tình của cha nhiều hơn, có thể sẽ nối nghiệp cha, hoặc có thể vì
hoàn cảnh, đương số sẽ sống gần gũi và hợp với cha nhiều hơn là với mẹ.
Khi nói đến hai sao Nhật Nguyệt, khoa Tử Vi có một
nguyên tắc mà chúng ta thường nghe là “Chính bất như chiếu” nghĩa là: Nhật
Nguyệt chiếu Mệnh tốt hơn thủ Mệnh. Điều này nghĩ cũng hợp lý, rất thực tế:
chẳng hạn như chúng ta đặt một ngọn đèn ngay trước mặt mà đọc sách thì ánh sáng
chiếu trực tiếp vào mắt sẽ làm cho mắt bị chói và mau mỏi mệt hơn là để ngọn
đèn chiếu lên chụp đèn, hay chiếu vào tường rồi phản chiếu vào trang sách.
Nhật Nguyệt chỉ đồng cung ở hai vị trí Sửu, Mùi gọi là
Nhật Nguyệt Đồng Lâm. Nhật Nguyệt Đồng Lâm cũng giống như hiện tượng Nhật Thực,
Nguyệt Thực. Khi Nhật Thực hay Nguyệt Thực thì mặt trăng che mặt trời hoặc mặt
trời che mặt trăng, cho nên ánh sáng mờ mờ ảo ảo, ngày chẳng ra ngày, đêm cũng
không giống đêm. Đó chính là nét đặc thù đầu tiên của mẫu người Nhật Nguyệt
Đồng Lâm: “Những người bất hiển công danh, cũng vì Nhật Nguyệt đồng tranh Sửu
Mùi”. Người Nhật Nguyệt Đồng Lâm có trí nhớ kém và thường hay có những quyết
định lầm lẫn, mãi cho đến khi việc đã xong, quay mình nhìn lại thì mới thấy ân
hận tại sao lúc đó mình làm như vậy. Người Nhật Nguyệt Đồng Lâm thần kinh dễ bị
suy yếu, hay bị những chứng nhức đầu kinh niên, căng thẳng thần kinh, dễ bị xúc
động, và chắc chắn một điều là hai mắt kém, có nhiều bệnh tật khi còn bé. Nữ mệnh
Nhật Nguyệt Đồng Lâm mỗi lần có kinh nguyệt thường bị đau bụng dữ dội hơn những
người khác và thường hay bị những chứng bệnh mà đông y gọi là bệnh khí huyết.
Nhật Nguyệt Đồng Lâm thủ Mệnh không phải là một cách
tốt trừ những trường hợp sau:
1)Nhật Nguyệt Đồng Lâm thủ Mệnh có Tuần án ngữ và được
các văn tinh như Xương Khúc, Khôi Việt, Quang Quý, Thai Tọa, Đào Hồng Hỷ hội
hợp thì trở nên tốt. Đây là số của những nhà văn, nhà thơ, nhà báo, những người
làm ngành truyền thông, hay là giới văn nghệ sĩ danh tiếng và có địa vị trong
giới văn chương, nghệ thuật.
2)Nhật Nguyệt Đồng Lâm thủ Mệnh có Hóa Khoa, Hóa Lộc
đồng cung hay xung chiếu, hay hợp chiếu thì lại trở nên tốt đẹp. Công danh sự
nghiệp vững vàng, có quyền cao chức trọng trong xã hội.
Tóm lại, ngoài hai trường hợp trên, người Nhật Nguyệt
Đồng Lâm thủ Mệnh ở Sửu/Mùi thì cuộc đời cũng được cơm no áo ấm nhưng đây là
mẫu người bất đắc chí, có khả năng mà không gặp được thời vận điển hình như nhà
thơ Tú Xương ngày xưa.
Cũng là Nhật Nguyệt đồng cung nhưng Nhật Nguyệt chiếu
Mệnh tốt hơn thủ Mệnh. Nếu Mệnh an ở Sửu được Nhật Nguyệt đồng cung ở Mùi xung
chiếu thì chắc chắn tốt hơn Nhật Nguyệt tọa thủ tại Mệnh. Tử Vi cũng có câu phú
khẳng định điều này: “Nhật Nguyệt đồng Mùi, Mệnh an Sửu, hầu bá chi tài.”
Trường hợp này nếu Mệnh có Tuần án ngữ để giữ ánh sáng của Nhật Nguyệt, và có
Hóa Kỵ thủ Mệnh như vầng mây ngũ sắc làm tăng thêm độ sáng cho Nhật Nguyệt,
được như vậy thì công danh phú quý càng rực rỡ và bền vững hơn.
Như vậy, khi nói đến mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm,
ta phải phân biệt hai trường hợp: nếu Nhật Nguyệt đồng cung thủ Mệnh thì cuộc
đời được mô tả khái quát như câu “Những người bất hiển công danh, cũng vì Nhật
Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi”; nếu Nhật Nguyệt đồng cung xung chiếu Mệnh thì công
danh sự nghiệp chắc chắn sẽ trong tầm tay. Nhưng cho dù ở trường hợp nào thì
mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm giống nhau ở chỗ mắt yếu, nhức đầu kinh niên,
thần kinh dễ rối loạn, trí nhớ kém, phái nữ thường bị đau bụng dữ dội khi hành
kinh. Năng khiếu nổi bật nhất của họ là văn chương và nghệ thuật.
Xem thêm các Sao và Cạch cục khác TẠI ĐÂY


0 Comments