Quảng Cáo

header ads

CÁC CÁCH CỤC XẤU

NHẬT TRẦM THỦY BỂ: THÁI DƯƠNG HÃM HỢI

Người Thái Dương thủ Mệnh tại hai cung Hợi người hiền lương rộng lượng, lòng nhân từ với mọi người nhưng đôi lúc tính tình cũng hơi cố chấp, có lẽ vì lúc nào cũng đối xử tốt đẹp với mọi người, cho nên nghĩ rằng người khác cũng sẽ đối xử với mình như vậy. người thông minh, tuy nhiên không được bền chí, làm việc gì cũng muốn nhanh chóng, gặp trở ngại thì dễ dàng nản lòng, bỏ cuộc; tính khí thanh cao, thích sự tao nhã, thích cuộc sống an nhàn, đặc biệt năng khiếu về thẩm mỹ, văn chương nghệ thuật.

Mẫu người Nhật Trầm Thủy Bể từ nhỏ đã có nhiều bệnh tật. Đáng kể nhất là những bệnh về mắt, bệnh về máu huyết như áp huyết cao, thần kinh dễ bị suy yếu, hay bị chứng đau đầu kinh niên. Nếu muốn qua khỏi bệnh tật này, lúc trẻ phải sống xa gia đình hoặc xa quê hương càng tốt, được như vậy thì sức khỏe sẽ ngày một khá hơn và tuổi thọ cũng kéo dài hơn. Tuy  nhiên vẫn phải thận trọng với đôi mắt của mình, nếu trong người hay tay chân không bị khuyết tật bẩm sinh, nếu thêm nhưng sao như Kình Đà, Thiên Hình, Kiếp Sát thì mắt thể bị vật nhọn đâm vào hay phải chịu sự mổ xẻ.

Nói về đường công danh sự nghiệp thì mẫu người Nhật Trầm Thủy Bể là những người có khả năng thiên phú, nổi bật nhất là trong lãnh vực văn học, nghệ thuật. Nhưng oái oăm thay, tài năng của họ cũng như mặt trời chìm sâu đáy nước cho nên hầu hết họ những ngưới bất đắc chí. Trong cuộc sống, trong công việc, hoặc trong những môi trường sinh hoạt hàng ngày họ thường gặp phải những hoàn cảnh khiến cho họ không thể thi thố hết tài năng của mình được. Đây cũng là trường hợp những người mang khả năng tâm huyết đạt thành quả, nhưng thành quả đó lại do người khác hưởng chứ người đời không biết đến mình. Chẳng hạn như những người chuyên dự thảo chương trình, kế hoạch, tham mưu, cố vấn, các chuyên viên, các khoa học gia âm thầm làm việc trong những phòng thí nghiệm v.v…

Nhật Trầm Thủy Bể nam hay nữ cũng những người khéo tay khiếu về thẩm mỹ. Họ xuất sắc trong những lãnh vực như nấu ăn, trang điểm, thêu thùa, trang trí nhà cửa… Nếu thêm những sao về văn học như Thái Âm, Xương Khúc, Khôi Việt, Đào Hồng Hỷ… hợp chiếu thì họ những nghệ thực tài nhưng hoàn cảnh tài năng phải bị mai một, hoặc là tác phẩm của họ chỉ được người đời biết đến khi họ đã khuất. Và những trường hợp mà chúng ta vẫn thường thấy là đôi lúc tên tuổi của một ca sĩ, một diễn viên trên sân khấu, màn ảnh… lại được nhiều người biết đến hâm mộ hơn những nhạc sĩ, người soạn tuồng, đạo diễn. Cũng như những tác phẩm nổi tiếng, những hồi ký của một chính khách, một nhân vật nào đó, thường vẫn do một người khác viết dùm. Đó ý nghĩa của mặt trời chìm đáy nước.

Riêng với nữ mệnh, Thái Dương ở Tí Hợi là người có nhan sắc nhưng nét mặt lúc nào  cũng phảng phất một nét buồn, bởi có câu “Nhật lạc nhàn cung, sắc thiểu xuân dung.”. Tính tình đa sầu đa cảm, tâm địa hiền thục thanh cao và có thể nói bốn chữ công dung ngôn hạnh đều hội đủ. Họ thường hợp sống gần với cha hơn mẹ, nhưng cũng Thái Dương hãm, cho nên khi lập gia đình thì lại khắc chồng, chuyện tình duyên buồn nhiều hơn vui.

Nói chung, Thái Dương hãm nhưng nếu không gặp những hung tinh hay ám tinh thì cuộc đời cũng đủ ăn đủ mặc. Nếu may mắn được những sao tốt đi kèm, hoặc được Tuần Triệt án ngữ thì hậu vận cũng có một cuộc sống an nhàn sung sướng. Người Thái Dương hãm địa thủ mệnh thiếu thời thường gặp những nghịch cảnh để rồi lúc nào cũng phải phấn đấu, chỉ khi về già thì cuộc sống mới phần toại nguyện. Nhưng đặc biệt với những người tuổi Bính tuổi Đinh thì lại rất hợp với Thái Dương tại cung Tí, cuộc đời vẫn được giàu sang phú quý: “Thái Dương cư tí, Bính Đinh phú quý trung lương”. Với các tuổi khác, tuy là có tài năng, nhưng suốt đời chỉ gặp toàn những cảnh bất đắc chí, cũng giống như nhà thơ Xương hay Cao Quát thôi.

TỲ NGỌC: CỰ KỴ

những điểm giống nhau khác nhau của hai mẫu người Cự Kỵ mẫu người Thai Phục Vượng Tướng. Cự Môn thuộc nhóm Bắc đẩu tinh, hành Thủy, miếu địa ở Mão, Dậu, vượng địa Tí, Ngọ Dần. Cự Môn cái miệng, con người sống cũng nhờ cái miệng, chết cũng cái miệng, được người thương cũng do cái miệng, bị người ghét cũng bởi cái miệng. Nếu Cự Môn tọa thủ tại những vị trí miếu, vượng thì Cự Môn còn là biểu tượng của sự giàu sang, thông minh, cơ trí, có khiếu ăn nói, có tài hùng biện, thích hợp với các ngành ngoại giao, giao thiệp, dạy học, luật sư, dụ Mệnh Cự Môn, Bạch Hổ, Tuế Phá Thiên Phù hội hợp thì nên chọn ngành luật, vì số có khả năng cao trở thành những luật sư tài giỏi. Nhưng ngược lại, nếu Cự Môn rơi vào những nơi hãm địa thì đã không tài giỏi lại thiếu suy nghĩ, cứ mở miệng ra bị người ta ghét suốt đời chỉ gặp toàn những chuyện thị phi khẩu thiệt.

Ý nghĩa thứ hai, Cự Môn viên ngọc. Cự Môn Ngọ cách Thạch Trung Ẩn Ngọc, có nghĩa là ngọc còn ẩn trong đá, Cự Môn gặp Nhật là cách Cự Nhật, là ngọc lấp lánh dưới ánh mặt trời, và Cự Môn gặp Hóa Kỵ cách Cự Kỵ chúng ta đang bàn đến, còn gọi Ngọc, nghĩa ngọc bị vết.

Sao thứ hai của cách này là Hóa Kỵ, ám tinh với nhiều tính xấu như độc hiểm, ích kỷ, ghen tuông, tai tiếng, thị phi, kiện cáo, tai họa, bệnh tật, nông nổi và hay lầm lẫn… Với bản chất như vậy, cho nên Hóa Kỵ đã làm cho viên ngọc Cự Môn thành vết, nhưng Kỵ cũng một điểm tốt giữ được của.

Cách Cự Kỵ đối với nam mệnh, ngoài những nét tổng quát cuộc đời nhiều thất bại, lại thường hay bị nhiều điều thị phi khẩu thiệt, tai nạn về xe cộ hay sông biển, cách này đáng lưu ý hơn đối với nữ mệnh. Khi gọi cách Ngọc thì chữ ngọc hàm ý chỉ vào phái nữ, hay nói rõ hơn là vấn đề trinh tiết, phẩm hạnh của một người phụ nữ, cho nên mẫu người Cự Kỵ chúng ta nói đến bàn nhiều đến nữ cách Cự Kỵ. Với nữ mệnh Cự Môn tọa thủ Hóa Kỵ đồng cung, xung chiếu hay hợp chiếu thì ít nhiều cũng điểm bất lợi. đây Cự Kỵ, Tham Kỵ, Đào Kỵ hay Thai Phục Vượng Tướng, thì sự cân nhắc nặng nhẹ phải hết sức thận trọng, vấn đề sẽ liên quan đến danh tiết phẩm hạnh của một người phụ nữ. Nên phân biệt:

+ Nữ có Cự Môn miếu vượng tọa thủ và gặp Hóa Kỵ: cần phải xem ở cung Mệnh và Thân, Phúc, Phu, Quan, Nô… để xem nếu có những sao xác định nết đoan chính như Nhật, Tứ Đức… hoặc những sao khắc chế tính lẳng lơ như Hóa Khoa, Thiên Hình… thì Cự Kỵ ở đây nhẹ là những người thường hay gặp các hoàn cảnh khiến cho mình bị những tai tiếng thị phi hoặc dễ bị người khác hiểu lầm, đánh giá sai lầm phẩm hạnh của mình mà có những lời nói, cử chỉ xúc phạm, sách nhiễu tình dục. Mức độ nặng hơn, nếu gặp những sao như Thiên Hình, Kiếp Sát… thì thể bệnh tật phải mổ xẻ, như cắt bỏ buồng trứng, tử cung v.v… Hoặc thể những tai nạn về xe cộ hay tai họa về sông biển. Như vậy, trong trường hợp này, viên ngọc của cách Tì Hà Ngọc vốn là một viên ngọc sáng, nhưng vì hoàn cảnh mà rơi xuống bùn nên vấy bùn, hoặc bị lăn xuống đường nên có tì vết, đó là ngoài ý muốn, là tai nạn của đương số thôi.

+ Nữ Mệnh Cự Môn tuy miếu, vượng gặp Hóa Kỵ, lại còn được sự hỗ trợ của các sao tính lãng mạn, như Xương, Khúc, Hồng Loan hoặc lẳng lơ, ham chuộng vật chất, nặng phần tình dục như Tham, Đào Hoa, Thiên Riêu v.v… thì những không tốt xảy ra cho đương số do bản tính chứ không phải những rủi ro, tai nạn, hoàn cảnh chỉ những trợ lực thúc đẩy thêm thôi. dụ, nữ mệnh cách Cự Kỵ lại gặp thêm Đào Hồng thì làm sao giữ được trinh tiết cho đến ngày lên xe hoa (chuyện này giờ rất bình thường), khi đã gia đình thì một đời cũng đau khổ tình hoặc phải lo buồn chồng con, cho họ có một cuộc sống vật chất đầy đủ, dù cho họ cũng có địa vị trong xã hội, là những mệnh phụ phu nhân… Viên ngọc của cách Ngọc trong trường hợp này một viên ngọc vốn đã có vết, có bọt ngay từ trong lòng đất, chứ không phải do tay người giũa ngọc hay người chủ của viên ngọc.

+ Trường hợp nữ mệnh Cự Môn hãm địa tọa thủ không được Tuần, Triệt án ngữ hay được các sao “đoan chính” hóa giải phần nào thì đây là một mẫu người có một bề ngoài ai mới gặp cũng thấy yêu thích, nhưng khi tiếp cận lâu dài thì mới thấy con người thật được che đậy vốn một người đàn chua ngoa, ghen tương, đố kỵ đủ điều… nếu đi kèm với một ám tinh Hóa Kỵ nữa thì ba chữ Ngọc thật đúng nghĩa! Tránh xa tốt hơn.

+ Cách Cự Kỵ tọa thủ tại cung Mệnh hay các cung Phúc, Quan, Tài hay Phu cũng nói lên sự bất ổn trong cuộc sống tình cảm của đương số. Lá số cách Cự Kỵ một đời khó lòng chỉ có một mối tình hay chỉ một cuộc hôn nhân, chuyện gãy đổ, chắp nối hay sống với nhau theo kiểu già nhân ngãi, non vợ chồng chuyện bình thường của mẫu người này, nếu không được những sao hóa giải. Các trở ngại hay đổ vỡ trong tình cảm thường là do sự khắc khẩu, ảnh hưởng của Cự Môn, và tính ghen tuông cũng như lòng ích kỷ quá nặng, ảnh hưởng của Hóa Kỵ.

Tóm lại, cách Cự Kỵ không tốt cho cả nam nữ, nhưng nữ mệnh thì nặng nề tai hại hơn trong lãnh vực trinh tiết và phẩm hạnh, cuộc đời chắc chắn là một kiếp phong trần, chỉ khác nhau mức độ nặng nhẹ thôi.

THAI PHỤC VƯỢNG TƯỚNG

“Thai Phục Vượng Tướng” chỉ là một bộ sao nhỏ, gồm các sao: Thai, Phục Binh, Đế Vượng, Tướng Quân hay Thiên Tướng. Trong thể, sao Thai chỉ bộ phận sinh sản của phụ nữ, cũng nghĩa bào thai, sự sinh đẻ, vấn đề sinh lý, tình dục, một cấu tạo mới hay sự thay đổi mới. Phục Binh chỉ sự lừa gạt, dối trá, âm mưu, gài bẫy, hãm hại. Đế Vượng nghĩa là cái lưng, là số nhiều, là sự hưng thịnh, phát đạt. Đế Vượng còn chỉ sự sinh sôi nảy nở, sự canh cải mới mẻ. Thiên Tướng/Tướng Quân trong cách này hàm ý nghĩa người đàn ông.

Bộ Thai Phục Vượng Tướng không có ý nghĩa gì nhiều về công danh, sự nghiệp hay giàu sang phú quý, và cũng không có gì đáng nói với nam giới. Đối với nữ giới, bộ sao này rất là quan trọng. Thai Phục Vượng Tướng cũng phần nào giống như bộ Cự Kỵ, hay Tham Kỵ, nói lên bản tánh, những biến cố, cũng như những khúc quanh quan trọng về mặt tình cảm, hay khuynh hướng tình dục trong cuộc đời của một người, đặc biệt là phụ nữ. Vì vậy ta phải rất thận trọng cân nhắc khi thấy một số nữ mệnh cách Thai Phục Vượng Tướng bởi lời giải đoán sự đánh giá về danh tiết phẩm hạnh của đương số.

Trường hợp nữ mệnh có Thai Phục Vượng Tướng nằm trong các cường cung như Mệnh, Tài, Quan, Phúc, Di, Thê mà chính cung có những sao chủ sự đoan chính, hay những sao có khả năng khắc chế tính lãng mạn, dâm đãng, lẳng lơ, sự buông thả trong vấn đề tình dục, thì số đó sẽ 2 trường hợp:

+ “Tiền Dâm Hậu Thú” nghĩa ăn với nhau trước rồi mới cưới hỏi sau. Ngày nay thì vấn đề này trở nên hết sức bình thường. Nhưng nếu ngược thời gian trở về một thế kỷ trước đây thì quả một điều khó thể chấp nhận được.

+ Sao Thai, Phục Binh nói lên sự hư thai, Đế Vượng ý nói nhiều lần. Cũng cách Thai Phục Vượng Tướng nhưng Mệnh các cung chính lại không những sao khắc chế, ngược lại thêm những dâm tinh khác như Tham, Đào Hoa, Thiên Riêu, Mộc Dục… đồng thủ hay hợp chiếu thì đương số sẽ thất trinh, thất tiết với người khác khi lấy chồng, hoặc sống với nhau theo kiểu già nhân ngãi, non vợ chồng chứ không có cưới hỏi gì. Trường hợp nữ Mệnh gặp cách Thai Phục Vượng Tướng cung Mệnh những cung chính bị nhiều sát tinh như Địa Không, Địa Kiếp đồng cung hay hợp chiếu thì sự thất tiết có thể là do hoàn cảnh hay tai nạn ngoài ý muốn, không hẳn đương số là hạng đàn bà lẳng lơ mất nết. Trường hợp có sao Thai thủ Mệnh, nhưng không đủ 4 sao mà Thai lại gặp Đào Hoa hay Hồng Loan tọa thủ đồng cung hoặc hợp chiếu thì ý nghĩa ở đây không những chỉ đơn thuần vấn đề ăn ở với nhau trước khi cưới hỏi còn chỉ bản tánh lẳng lơ, mất nết, thích chuyện ngoại tình, cho nên phú Tủ Vi mới câu: “Đào Hồng mà ngộ sao Thai Tiền dâm hậu thú mới ra vợ chồng.” hay “Đào Hồng mà ngộ sao Thai chồng vừa khỏi cửa đón trai vào nhà”. Trường hợp nữ mệnh có Thai Phục Vượng Tướng mà sao Thai cùng với những dâm tinh khác tọa thủ tại Mệnh, mà đương số đã có gia đình thì sẽ có thai do ngoại tình. Nếu Thai gặp Song Hao thì dễ bị hư thai, gặp Lưu Hà hay Hóa Kỵ thì dùng thuốc phá thai, gặp Thiên Hình hay Kiếp Sát thì nạo thai, hay khi sanh phải bị  mổ xẻ.

Nếu Thai tọa thủ tại Mệnh Thiên Riêu đồng cung hay hợp chiếu thì đây cũng mẫu đàn bà có cuộc sống rất buông thả. Nếu Thai Riêu gặp thêm Đào Hoa nữa thì phải chịu một kiếp phong trần, nếu không được những sao khắc chế bớt sẽ dễ trở thành gái giang hồ, đàn lăng loàn, xem thường luân thường đạo lý. Cũng cách Thai Phục Vượng Phục Binh thủ Mệnh hoặc xung chiếu từ Di thì sự thất trinh của đương số thường bị dụ dỗ, cưỡng bức, hay gài bẫy. Nếu thêm Không Kiếp đồng cung hay hợp chiếu thì càng chắc chắn hơn.

Trường hợp nữ Mệnh không thuộc cách Thai Phục Vượng nhưng trong số bộ sao này nằm một cung nào đó thì chúng ta cũng nên cân nhắc 2 trường hợp sau đây:

             Mệnh của đương số là người đoan chính, đến hạn gặp Thai Phục Vượng thì vấn đề sinh con đến trong hạn này.

             Nếu Mệnh là người đa tình, lãng mạn mà hạn gặp Thai Phục Vượng (phải đủ 4 sao) thì phải nên thận trọng trong vấn đề giao lưu tình cảm. Trong hạn này (thường ứng nghiệm vào tiểu hạn 1 năm) cuộc đời sẽ nhiều thay đổi, những khúc quanh trong vấn đề tình cảm, thể khúc quanh này sẽ thay đổi cả cuộc sống hiện tại của đương số. một điều đáng lưu ý sự việc không chỉ đơn thuần trên vấn đề tình cảm mà Thai Phục Vượng còn có ý nghĩa sâu đậm trên vấn đề xác thịt. Đối với nam giới thì cách Thai Phục Vượng chỉ bản tính đặt nặng vấn đề vật chất, xác thịt hơn tình cảm. Trong tình yêu, họ cho rằng trái tim tâm hồn của người yêu chưa đủ, phải chiếm đoạt cho được cả thân xác. Nếu hội thêm những sao như Tham, Phá Quân hãm, Không Kiếp, Quan Phù, Quan Phủ… thì chắc chắn anh ta con của họ Sở  (Sở Khanh).

Tóm lại, trong cách Thai Phục Vượng Tướng, đặc biệt đối với nữ thì nói lên sự chủ ý hay tự nguyện của đương số nặng hơn hoàn cảnh, hay tai nạn như cách Cự Kỵ. Nhìn chung, mẫu người Thai Phục Vượng Tướng có thể bao gồm mọi thành phần, mọi giai cấp trong xã hội, từ một người đàn tầm thường cho đến một mệnh phụ phu nhân, đây chỉ lãnh vực tình cảm hay khuynh hướng tình dục, vấn đề phẩm hạnh của con người.

KHỐC

Khốc biểu tượng của 2 giọt nước mắt, vậy cho bất cứ lãnh vực nào của cuộc đời, khi nói đến sức khỏe, tình duyên, hôn nhân, tiền bạc, hay công danh sự nghiệp thì sự hiện diện của Khốc, cũng cho ta biết con đường đầy nước mắt thương đau dành cho đương số. Chẳng hạn, chưa nói đến Khốc, tọa thủ tại Mệnh chỉ nói đến Khốc, tọa thủ tại cung Quan thì cũng hiểu được công việc làm của đương số phải vất vả, lận đận, ba lần bại mới được một lần nên. Cùng một ngành nghề nhưng người có Khốc, Hư ở Quan phải lao tâm khổ lực hơn những người không có. Nếu Khốc Tài thì đồng tiền kiếm được chắc chắn phải đổi bằng nhiều mồ hôi và nước mắt. Khốc, Hư ở Phu thì việc hôn nhân phải trải qua nhiều trở ngại, nếu ăn ở với nhau rồi thì nước mắt cũng nhiều hơn là nụ cười. Khốc, Hư ở cung Tử thì cha mẹ nuôi con rất cực khổ, đến khi con lớn lên lại phải gánh chịu nhiều phiền muộn vì con cái. Khốc, Hư ở Nô thì từ bạn bè đến kẻ ăn người ở, và cả người tình của mình đều thường xuyên đem đến những phiền muộn cho mình trong việc giao tế, làm ăn chuyện tình cảm.

Khốc, đều thuộc hành Thủy, đắc địa Tí, Ngọ, Mão, Dậu, Mùi. biểu tượng của 2 giọt nước mắt, cho nên người có Khốc, Hư thủ Mệnh thường hay lo lắng, hay suy tư, và cũng rất hay bị đau ốm bệnh tật. Đây mẫu người kín đáo phần độc tựa như Khúc hay Đẩu Quân thủ Mệnh vậy. Lúc còn sống trong gia đình thì khắc với cha mẹ, anh em. Khi gia đình thì khắc với vợ/chồng con, nhưng sự xung khắc không đến nỗi trầm trọng. Người Khốc, nếu chưa qua khỏi tiền vận thì đừng nên toan tính nhiều để rồi thất vọng. Muốn được xứng  ý toại lòng phải từ trung vận trở về sau.

Nếu trên cương vị một người chủ hay một cấp chỉ huy thì mẫu người Khốc, Hư thủ Mệnh là một cấp thừa hành tốt vì họ là người có tinh thần trách nhiệm. Giao việc cho họ, họ sẽ lo lắng, suy nghĩ, soạn thảo kế hoạch, đắn đo cân nhắc rất thận trọng. khi đã làm thì làm đến nơi đến chốn. Nhưng oái oăm thay, với tinh thần làm việc như thế ít khi người Khốc, đạt được kết quả một cách dễ dàng ngay từ phút đầu tiên. Vì thế khoa Tử Vi gọi mẫu người Khốc, Hư là “Tiền Trở Hậu Thành” có nghĩa là thường bị trở ngại lúc đầu rồi sau đó mới thành công. Tuy nhiên đặc tính Tiền Trở Hậu Thành chỉ ảnh hưởng mạnh mẽ trong tiền vận mà thôi, rồi sau đó sự tác hại sẽ nhẹ dần. Về đặc tính này, người Khốc, phần nào giống người Chính Diệu: trong một hạn, dù tiểu hay đại hạn, và trong cả một đời người, chỉ được may mắn, hanh thông vào nửa đời sau thôi.

lẽ vậy mà người Khốc, rất ý chí, luôn luôn gắng để vươn lên trong mọi tình huống. Khi vượt qua khỏi cái tiền vận gian nan sẽ bước vào một hậu vận tốt đẹp hơn. Điểm nổi bật của người Khốc, Hư là khả năng thuyết phục người khác, có tài hùng biện và rất sắc bén trong lĩnh vực chính trị. Nếu Khốc, Hư đi chung với Cự Nhật hay Tang Hổ thì đây là những thầy giáo giỏi, những nhà ngoại giao hay chính khách tài.

Khốc, hai vị trí tốt đẹp hai cung Ngọ chúng ta quen gọi Khốc Ngọ cách tiền bần hậu phú. Nếu Mệnh an tại Ngọ Khốc, đồng cung (ở tốt hơn) thì cuộc đời trước nghèo sau giàu. Sự thay đổi vào thời điểm nào, nhanh hay chậm còn tùy thuộc vào toàn bộ số (đến hạn thuận lợi sẽ thay đổi).

BẦN TIỆN CỤC

-SINH BẤT PHÙNG THỜI: Liêm Trinh thủ Mệnh tại Dần, Thân gặp Tuần, Triệt án ngữ. (sinh không gặp thời)

-NHẤT SINH CÔ BẦN: Phá Quân thủ Mệnh tại Dần, Thân gặp nhiều sát tinh mờ ám xâm phạm (Nhất sinh cô bần = một đời cô độc, nghèo)

-TÀI DỮ TÙ CỪU: Vũ Khúc hay Liêm Trinh hãm thủ Mệnh, bị nhiều sát tinh xâm phạm (xấu)

-NHẬT NGUYỆT TÀNG HUNG: Nhật, Nguyệt hãm thủ, chiếu, hay giáp Mệnh (kém tốt, chứ không xấu xa nhiều)

-QUÂN TỬ TẠI DÃ: Mệnh có nhiều sát tinh xấu, hãm hội hợp.

Quân tử tại dã = quân tử sa cơ, lưu lạc ngoài dân gian, không được trọng dụng.

-LỘC PHÙNG LƯỠNG SÁT: 1 Lộc thủ Mệnh, có Không Kiếp đồng cung. Nghèo.

-MÃ LAI KHÔNG VONG: Thiên Mã thủ Mệnh gặp Tuần, Triệt án ngữ. Ngựa què rồi thì làm sao mà tốt?

-LỘC XUNG MÃ KHỐN: Hạn có Sát, Lộc, Mã hội hợp và Tam Không xâm phạm. Lộc Mã bị nguy khốn,  xấu

Bần tiện cục: nếu Tuần, Triệt án ngữ thì đỡ xấu, nếu nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp thì trở nên tốt. Xấu nhất là Mệnh tại Tứ Sinh (Dần Thân Tỵ Hợi) gặp nhiều sát tinh xâm phạm. Nếu cả Phúc, Tài, Điền đều xấu thì bần tiện, nghèo hèn.

>>>CÁCH NGHÈO

NGHÈO VỀ NHÀ CỬA, ĐIỀN SẢN

Nghèo về nhà cửa, điền sản nếu cung Điền những bộ sau:

+ Phá Quân ở Dần Thân; Thất Sát ở Thìn Tuất; hay Đồng Cự đồng cung; Cự ở Thìn Tuất Tỵ; Sát đồng cung; Nhật hãm; Nguyệt hãm: không tài sản.

+ Tử Sát đồng cung; Tử Phá đồng cung; Liêm Trinh Dần Thân; Phá đồng cung; Cự Nhật ở Thân; Tham Lang Dần Thân Tý Ngọ; Cự Môn Hợi Tý Ngọ; Thất Sát Tý Ngọ; Phá Quân Thìn Tuất; Liêm Tham đồng cung: có ít nhiều di sản nhưng không giữ được, không hưởng được, bị phá sản, phải lìa bỏ tổ nghiệp, chỉ có thể tự lập mới có chút ít điền sản nhưng phải chật vật chậm lụt, nhiều khi phải tha hương lập nghiệp.

+ Liêm Phủ đồng cung; Liêm Sát đồng cung; Liêm Phá đồng cung; Lương Nhật đồng cung Dậu: tương đối khá hơn, di sản nhưng bị sa sút về sau (Liêm Phủ); chậm của (Liêm Sát); lập nghiệp thất bại buổi đầu (Liêm Phá); về già mới nhà đất (Dương Lương).

NGHÈO VỀ TIỀN TÀI

Nghèo tiền tài khi cung Tài có:

+ Liêm Tham đồng cung; Phá Quân Dần Thân; Thất Sát Thìn Tuất; Tham Lang Dần Thân Ngọ: nghèo túng, nợ nần, hoang phí, bị hình ngục tiền (Liêm Tham)

+ Tử Sát: kiếm tiền mau lẹ; Tử Phá: chật vật buổi đầu, càng về sau càng sung túc; Tử Tham: bình thường, của hương hỏa nhưng về sau sa sút; Liêm Trinh Dần Thân: kiếm tiền phải cạnh tranh và chậm, nhưng làm giàu chắc chắn; Liêm Phủ: giàu có lớn, giữ được của; Liêm Sát: tiền bạc thất thường, hết lại có; Liêm Phá: dễ kiếm tiền lúc thời loạn, nhưng hay bị họa tiền; Đồng Cự: tiền bạc ra vào thất thường; Phá: tiền vào, rồi lại ra hết; Sát: tự lập, vất vả buổi đầu; Cự Hợi Ngọ: tự lập, phát tài nhanh lúc loạn; Cự Thìn Tuất Tỵ: tiền bạc thất thường, hay bị kiện tụng thị phi tiền; Sát Ngọ: tiền bạc thất thường, hoạnh tài; Phá Quân Thìn Tuất: tiền bạc thất thường, hết lại có.

+ Không Kiếp hội hợp cung Tài cho thấy sự mất tiền. Giàu nghèo thì tùy độ tốt của cung Tài. Kiếm tiền hay không cũng tùy các sao hội hợp cung Tài. Nhưng Không Kiếp hãm thì không giữ được tiền, đồng tiền kiếm được cứ phải đi ra (có thể bị giật, bị lừa, phá sản, mất tiền, hay phải lo cho người khác, …). Nếu Không Kiếp đắc tại 04 cung 04 góc thì ban đầu thể “phát” (kiếm được nhiều tiền) nhưng cuối cùng cũng mất tiền. Không Kiếp đắc đưa đương số “bay” lên, rồi lên càng cao thì té càng đau khi Không Kiếp trở mặt “quật” ta xuống, vì Không Kiếp 02 hung tinh “ghê sợ” nhất mà, ban đầu “giúp” ta thì cuối cùng cũng “trở mặt” thôi.

PHÓNG ĐÃNG

Mệnh hay Thân có nhiều sát tinh hội hợp cùng Đào Hồng Hỉ Riêu, chính tinh hãm (không đủ sức khống chế): say tửu sắc tự chiêu lấy tai họa. Tham hãm thủ Mệnh: chơi bời phóng đãng.

PHÁ TƯỚNG

Phúc xấu, Ách xấu và không có sao giải cứu, Mệnh gặp sát bại tinh xâm phạm, chính tinh hãm, nhất Sát Phá Liêm Tham Tướng Cự hãm: tàn tật.

Kình Đà thủ Mệnh gặp Hỏa Linh hợp chiếu: hay bị đau lưng, có tật ở lưng, hoặc bệnh phải ngồi 1 chỗ.

YỂU MỆNH

Mệnh, Thân, Phúc đều xấu, đại hạn 10 năm xấu. Thất Sát hãm thủ Thân thì phi bần tất yểu (giàu chết sớm, nghèo lại thọ): sách nói ngắn gọn vậy, tuy nhiên, ta không thể chỉ dựa vào một yếu tố này, phải xem Mệnh, Thân, Phúc, Hạn. 

Post a Comment

0 Comments