Lục thập hoa
giáp chính là sự kết hợp 6 chu kỳ hàng can với 5 chu kỳ hàng chi thành hệ 60. Vậy
lục thập hoa giáp là gì?
Cách tính năm,
tháng, ngày, giờ đều theo hệ số đó, gọi là lịch can chi. Có 6 chu kỳ hàng can tức
là có 6 giáp, mà mỗi chu kỳ hàng can hay mỗi giáp gồm 10 can (Giáp, Ất, Bính,
Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý) nên gọi là lục thập hoa giáp.
Cách xắp xếp của
bảng lục thập hóa giáp rất rõ ràng, từ Tý khởi đầu cho đến Lục âm Hợi của 12 địa
chi.
– Hai vị Tý và
Sửu là sự kết hợp âm dương vừa mới thụ thai, với con người thì coi như giai đoạn
phát triển đầu tiên còn ở trong bào thai mẹ. Với vạn vật nói chung là giai đoạn
tàng ẩn trong hạt, quả, gốc rễ mà mắt thường khó nhận ra được.
– Hai vị Dần và
Mão là âm dương bắt đầu xuất hiện có thể nhìn thấy được, với con người là lúc vừa
lọt lòng mẹ. Với vạn vật là giai đoạn nảy mầm, hình thành cây trái.
– Hai vị Thìn
và Tỵ là giai đoạn âm dương bắt đầu thịnh vượng, vạn vật ở vào giai đoạn phát
triển, con người ở vào giai đoạn thành tựu, chín chắn.
– Hai vị Ngọ và
Mùi Ịà âm dương đã hiển lộ rõ rang, vạn vật phát triển đến giai đoạn cực thịnh.
Với con người đã đến 50, 60 tuổi. Đời người vượng suy, giàu nghèo sang hèn cũng
đã có thể biết được.
– Hai vị Thân
và Dậu là âm dương đã bắt đầu thu lại, vạn vật rồi cũng đi đến tận cùng trở về
trạng thái tĩnh lặng.
– Hai vị Tuất
và Hợi, âm dương đã được khống chế, sức sống của vạn vật đã hoàn nguyên, lá rụng
về cội, con người đã được nghỉ ngơi trở về cội nguồn.
Bảng nạp âm lục
thập hoa giáp, chia làm 30 biểu tượng về ngũ hành nạp âm sau đây:
(1) Giáp Tý, Ất
Sửu: HẢI TRUNG KIM
Ngũ hành của địa
chi Tý là thủy, thủy được coi là hồ, sông, biển lơn, nơi đó thủy thịnh vượng.
Theo vòng trường
sinh kim cục, Tử ở Tý và Mộ ở Sửu, thủy ở thế vượng mà kim lại tử ở đó nên người
ta gọi là Hải trung kim.
(2) Bính Dần,
Đinh Mão: LÔ TRUNG HỎA.
Dần Mão ở địa chi là ngôi thứ 3 và thứ 4, ngũ hành là mộc, thiên can Bính, Đinh trong ngũ hành thuộc hỏa. Hỏa đã ở chính ngôi lại được Dần Mão thuộc Mộc trợ giúp, giai đoạn này trời đất ấm nóng lên như lửa trong lò mới bắt đầu, vạn vật mới bắt đầu sinh trưởng nên gọi là Lô trung hỏa.
(3) Mậu Thìn, Kỷ
Tỵ: ĐẠI LÂM MỘC.
Thìn Tỵ là 2 địa
chi thuộc ngôi thứ 5 và 6, Thìn thổ đại diện cho đất đai ẩm ướt và hoang dã. Mộc
ờ đất này phát triển tốt cây lá xum xuê, cây to lớn mọc thành rừng nơi đất
hoang dã nên gọi là Đại lâm mộc.
(4) Canh Ngọ,
Tân Mùi: LỘ BÀNG THỔ
Mùi là địa chi
ngôi thứ 8, Mùi thổ, nơi dưỡng mộc, mộc sinh hỏa làm cho Ngọ hỏa càng vượng. Ngọ
hỏa vượng lại đốt thổ làm cho thố bị khô hạn cho nên thổ bị hại coi mình như bụi
ven đường nên gọi là Lộ bàng thổ.
Lộ bàng thổ nếu
được thủy tưới, có thể quay về với thổ mà sinh ra vạn vật, nếu được kim giúp
thì có thể xây được cung điện phú quý.
(5) Nhâm Thân,
Quý Dậu: KIẾM PHONG KIM.
Thân Dậu thuộc
ngôi thử 9,10 của địa chi, ngũ hành là kim và nằm trong giai đoạn phát triển của
vạn vật. Theo vòng trường sinh kim cục thì Thân tọa ở “Lầm quan” Dậu tọa ở “Đế
vượng”. Vậy Thân Dậu là nơi cực vượng của kim cục. Do đó kim ở đây rất cương cứng.
Sự vật cương cứng thì không thể vượt qua được mũi kiếm, kim cứng được coi như
mũi kiếm, nên gọi là Kiếm phong kim.
(6) Giáp Tuất, Ất
Hợi: SƠN ĐẦU HỎA
Tuất, Hợi trong
địa bàn thuộc phương Tây Bắc, thuộc quái càn – càn biểu tượng của trời Tuất, Hợi
là nơi cửa trời. Thiên can Giáp, Ất phương Đông thuộc ngũ hành mộc, mộc ở nơi cửa
trời như gỗ cháy soi sáng cửa trời, ánh lửa chiếu sáng trên cao, cho nên gọi là
lửa trên núi. Hoàng hôn, mặt trời xuống ngang núi, chiếu sáng lung linh cho nên
lửa trên núi phản ánh được ráng trời.
Sơn đầu hỏa có
thể thông với trời, người mệnh này hiển vinh và quý phái. Tuy nhiên núi phải có
cây, lửa ở cửa trời kỵ gặp thủy, nếu gặp Đại hải thủy (Nhâm Tuất, Quý Hợi) thì
nguy khốn.
(7) Bính Tý,
Đinh Sửu: GIẢN HẠ THỦY
Vòng trường
sinh thủy cục, Đế vượng ở Tý và Suy ở Sửu. Thủy vượng ở Bính Tý, lại suy ở Đinh
Sửu, nên không thể là nước sông to mà chỉ là nước ở khe suối. Sau cơn mưa, nước
từ sườn núi đổ xuống khe, khe hợp lại thành suối, nước theo dòng chảy xiết va
vào đá mà bắn tung tóe, suối hợp lại thành dòng lớn, thành sông chảy về biển.
Nước khe núi là
nước đầu nguồn, thủy gặp được kim phù hợp là kim trong cát và kim mũi kiếm (kim
trong cát là: Giáp Ngọ, Ất Mùi, còn Kim mũi kiếm là Nhâm Thân, Quý Dậu.)
Thủy không gặp
được mệnh của thổ và hỏa, thủy hỏa chẳng dung nạp nhau, thổ chỉ làm bẩn nước, tốt
nhất là gặp Đại khê thủy (Giáp Dần, Ất Mão), tức nước suối nho nhỏ hợp thành
sông là hợp với đạo trời.
(8) Mậu Dần, Kỷ
Mão: THÀNH ĐẦU THỔ
Địa chi Dần
Mão, ngũ hành mộc, thiên can Mậu Kỷ ngũ hành thổ, thổ trung ương. Hình tượng
cây cối mọc xung quanh thành liên tưởng đến khái niệm tích thổ thành núi, đắp đất
thành tường nên gọi là đất trên thành.
Kinh đô nơi
Hoàng đế cư ngụ gọi là thành, thành xưa kia đắp bằng đất, xây bằng gạch, uy thế
bốn phương.
Mệnh này gặp nước,
gặp núi là hiển vinh, trong thành gặp núi giả, nước tù thì không tốt. Kỵ gặp Đại
hải thủy (Nhâm Tuất, Quý Hợi) Tích lịch hỏa (Mậu Tý, Kỷ Sửu).
(9) Canh Thìn,
Tân Tỵ: BẠCH LẠP KIM.
Kim vốn sinh ra
từ trong lòng đất, nhưng lại nhờ có hỏa mà hình thành vật dụng hữu ích. Ở đây
hình thái của kim đã bắt đầu hình thành nhưng độ cứng rắn chưa có, nên gọi là
kim giá đèn (Bạch lạp kim) Kim mới bắt đầu phát triển, giao hòa với trái đất mà
kết khí âm dương.
Vì tính chất
như vậy nên kim giá đèn thích hỏa như Ất Tỵ, gọi là “Phong mãnh hổ cách” Thi cử
học tập thuận lợi và thích thủy như Ất Dậu, Quý Tỵ cũng được coi như mệnh quý,
Bạch lạp kim đó cứng rắn còn yếu nên sợ gặp mộc.
(10) Nhâm Ngọ,
Quý Mùi: DƯƠNG LIỄU MỘC
Mộc cục, vòng
trường sinh Tử ở Ngọ và Mộ ở Mùi. Vì vậy mộc chỉ có thể mượn thiên can Nhâm,
Quý ngũ hành thủy để cứu sống. Tuy vậy sức sống của mộc vẫn yếu ót nên gọi là gỗ
cây liễu.
Cây dương liễu
chỉ thích hợp với thổ là Bính Tuất và Đinh Hợi, và thích hợp với tất cả các mệnh
thủy trừ Đại hải thủy.
Bản tính Dương
liễu mộc là yếu đuối nên kỵ gặp hỏa, kỵ gặp thạch lựu mộc (canh Thân, Tân Dậu)
sẽ bị áp chế, một đời bần hàn vất vả.
(11) Giáp Thân,
Ất Dậu: TUYỀN TRUNG THỦY
Kim cục, vòng
trường sinh kiến lộc (Lâm quan) ở Thân, đế vượng ở Dậu. Vậy kim ở đây là cực vượng,
kim dựa vào hỏa để sinh thủy, tuy vậy thủy mới được sinh thì còn yếu ớt, lại
không vượng nên gọi là nước trong suối. Thủy sẽ không bao giờ ngừng khi có kim.
Vì vậy thủy ưa
thích gặp Sa trung kim (Giáp Ngọ, Ất Mùi) và Thoa xuyến kim (Canh Tuất, Tân Hợi),
thủy gặp mộc cũng tốt.
Nếu trong tứ trụ,
trụ năm và giờ đều có thủy, trụ ngày và tháng đều có mộc thì đây là mệnh đại
phú quý.
(12) Mậu Tý, Kỷ
Sửu: TÍCH LỊCH HỎA
Địa chi Tý thuộc
ngũ hành thủy, Sửu thuộc ngũ hành thổ, Tý thủy ở cho nên nạp âm là hỏa, tức hỏa
trong thủy. Như vậy chỉ có thể là lửa sấm sét, sấm sét liền với tỉa chớp biến
không cùng. Về bản chất thủy hỏa vốn chẳng bao giờ hòa hợp mà nay thủy hỏa hợp
nhất, ngày xưa cho là một loài rồng thần.
Tích lịch hỏa với
thổ, thủy, mộc gặp nhau, hoặc tốt hoặc là vô hại, kỵ gặp hỏa, hai hỏa gặp nhau
là xấu.
(13) Bính Tuất,
Đinh Hợi: ỐC THƯỢNG THỔ
Tuất Hợi như
cánh cửa trời, Bính Đinh ngũ hành hỏa, Tuất Hợi một thổ, một thủy hòa lại thành
đất dẻo, được hỏa nung lên mới thành gạch ngói làm mái nhà. Đất trên mái nhà,
đương nhiên chỉ là gạch ngói, muốn lợp nhà thì cần phải có gỗ (mộc) làm xà đỡ
và cần kim để trang trí. Vì vậy gặp kim mũi kiếm, kim trang sức đều là mệnh phú
quý.
Nhà cửa tất sợ
lửa cháy cho nên ốc thượng thổ sợ gặp hỏa, nhưng nếu gặp Thiên thượng hỏa là
ánh nắng mặt trời thì lại rất tốt.
(14) Canh Dần,
Tân Mão: TÙNG BÁCH MỘC
Mộc cục, theo
vòng trường sinh Lâm quan ở Dàn và Đế vượng ở Mão, mộc ở Dần Mão là thế thịnh
vượng không phải là loại yếu đuối cho nên người xưa gọi là gỗ cây thông, cây
tùng.
Cây tùng, cây
thông là loại cây có sức sống và chịu đựng mãnh liệt, có thể hứng tuyết mùa
đông, có thể hứng sương, che nắng mặt trời.
Trong hỏa chỉ
có lửa trong lò (Bính Dần, Đinh Mão) và trong thủy chỉ có Đại hải thủy (Nhâm Tuất,
Quý Hợi) mới có thể hại được tùng bách mộc. Tuy là cùng hành mộc như Đại lâm mộc,
Dương liễu mộc nhưng chất không giống nhau dễ sinh lòng hiềm khích đố kỵ.
Tùng bách mộc
thích gặp kim, có kim gỗ mới trở thành vật dụng hữu ích được.
(15) Nhâm Thìn,
Quý Tỵ: TRƯỜNG LƯU THỦY
Trong thủy cục,
Thìn là mộ kho (Thân Tý Thìn) là nơi tích trữ nước, Tỵ ngũ hành hỏa là Trường
sinh của kim cục, trong ngũ hành kim vốn sợ thủy, nhưng kim trong Tỵ có hàm chất
thủy. Bởi vì nơi tích trữ thủy lại gặp kim sinh thủy nên nguồn thủy dồi dào và
liên tục nên gọi là nước sông dài (Trường lưu thủy). Trường lưu thủy ở quái tốn,
Đông Nam lấy yên tĩnh làm quý.
Nước sông dài gặp
kim sinh thủy là tốt, kỵ gặp thủy vì thủy nhiều dễ gây lụt lội cũng kỵ gặp thổ
tương khắc như ốc thượng thổ (Bính Tuất, Tân Hợi) và Bích thượng thổ (Canh Tý,
Tân Sửu) thì khó tránh được tai ách.
Thủy hỏa tuy là
tương khắc, nhưng cũng có trường hợp dung nạp lẫn nhau, như nước sông dài gặp lửa
ngọn đèn (Giáp Thìn), lửa trên núi (Ất Hợi). Nhưng Thìn là rồng, rồng gặp thủy,
có ý như là rồng về với biển, cách này lại là rất tốt.
(16) Giáp Ngọ, Ất
Mùi: SA TRUNG KIM
Vòng trường
sinh của hỏa cục: Ngọ là Đế vượng, Mùi là Suy, hỏa vượng thì kim suy, hỏa yếu
kim mới có thể trưởng thành. Còn hỏa bắt đầu suy, kim mới hiện hình chưa có lực,
chưa kịp lớn mạnh nên gọi là kim trong cát (Sa trùng kim)
Kim cần phải có
hỏa để luyện, nếu hỏa quá vượng kim sẽ bại, cần có mộc để điều phối kim, đồng
thời nếu lấy lửa trên núi, lửa dưới núi, lửa ngọn đèn có tính ôn hòa để luyện lại
kim. Mệnh như vậy người xưa cho rằng đó là mệnh cục của thiếu niên vương giả.
Sa trung kim cần
thủy tĩnh, kỵ nước biển lớn và nước sông dài vùi mất kim, cần phối hợp với nước
khe suối, nước trong suối và nước trên trời. Đồng thời kỵ gặp đất bên đường, đất
trong cát dễ bị chôn vùi.
(17) Bính Thân,
Đinh Dậu: SƠN HẠ HỎA
Thân ở Tây Nam,
thuộc quái Khôn (Mùi Khôn Thân) có thể gọi là cửa mở xuống đất. Bính Đỉnh là hỏa
là mặt trời, giờ Dậu là lúc hoàng hôn, mặt trời lặn. Hàng ngày đến giờ Dậu giống
như mặt trời đi xuống núi nên gọi là lửa dưới núi (Sơn hạ hỏa) giờ Dậu, lửa dưới
núi gặp thổ là tốt. Là ánh sáng mặt trời vào đêm nên không thích gặp lửa sấm
sét, lửa mặt trời cũng như lửa đèn.
(18) Mậu Tuất,
Kỷ Hợi: BÌNH ĐỊA MỘC
Mậu thổ được
coi như đồng bằng, Hợi là Trường sinh của mộc cục, cây sinh ở đồng bằng không
thể là rừng, chỉ là ruộng vườn với các giống cây nhỏ mặc dù diện tích trồng rộng
lớn. Nên gọi là cây đồng bằng (Bình địa mộc)
Cây đồng bằng
thích mưa không thích sương giá băng tuyết, sợ chặt phá nên kỵ gặp kim, gặp kim
là bất lợi, ưa thủy, thổ và mộc.
(19) Canh Tý,
Tân Sửu: BÍCH THƯỢNG THỔ
Sửu, chính ngũ
hành thổ, Tý là Đế vượng của vòng trường sinh thủy cục, thổ gặp phải thủy vượng
mà biến thành bùn. Đất bùn chỉ có thể đắp tường, đắp đê, đắp đập, nên gọi là đất
trên tường (Bích thượng thổ)
Đất trên tường
dùng để làm nhà, phải có cột xà bằng gỗ nếu gặp mộc là tốt, kỵ gặp hỏa dễ hỏa
hoạn, gặp thủy cũng tốt trừ nước biển lớn (Đại hải thủy) với kim chỉ ưa kim bạc
kim.
(20) Giáp Thìn,
Ất Tỵ: PHÚC ĐĂNG HỎA
Thìn về thời
gian là lúc mà trời đã sáng, Tỵ là giờ buổi trưa, vào giờ Thìn, Tỵ mặt trời
sáng rực rỡ, không cần phải dùng đèn chiếu sáng nữa. Cho nên hỏa ở đây rất bé
nhỏ, chỉ được xem như lửa ngọn đèn. Ánh sáng của đèn chỉ dùng những chỗ mà mặt
trời, mặt trăng không thể chiếu sáng tói được.
Nói cách khác,
lửa ngọn đèn chính là lửa chiếu sáng dùng cho ban đêm, ngày xưa ngọn đèn đi liền
với gỗ và dầu. Dầu ngũ hành thủy, vậy lửa ngọn đèn gặp mộc và thủy là tốt, ban
đêm chủ về âm tính nên lửa ngọn đèn kỵ mặt trời (dương).
Lửa ngọn đèn có
hai loại mệnh quý: một là “che đèn thêm đâu”, chỉ lửa ngọn đèn gặp nước dưới giếng,
nước dưới khe, nước sông dài. Và một nữa là “dưới đèn múa kiếm”, chỉ ngọn lửa
đèn gặp kiếm phong kim.
Lửa ngọn đèn
còn sợ gặp thổ là đất mái nhà (Bính Tuất, Đinh Hợi)
Lửa ngọn đèn
thích hỏa nhưng trừ lửa sấm sét dễ làm tắt đèn.
(21) Nhâm Dần,
Quý Mão: KIM BẠC KIM
Mộc cục, vòng
trường sinh Lâm quan ở Dần, Đế vượng ở Mão, Dần Mão là nơi mộc vượng. Nơi mộc
vượng cũng là nơi kim bị gầy yếu, nhược. Kim Tuyệt ở Dần, Thai ở mão, kim mềm yếu,
không có lực tại Dần Mão nên gọi là kim loại trang sức (Kim bạc kim).
Kim bạc kim làm
đồ trang sức, ngày xưa dùng nhiều trong trang trí kiến trúc đền chùa hay cung
điện của Hoàng đế. Chất liệu kim và ánh sáng của nó đẹp đẽ tôn quý, nguồn gốc
do kim được chế tác mà thành.
Sách xưa nói rằng,
mệnh Kim bạc kim gặp đất trên thành (Mậu Dần, Kỷ Mão) gọi là “viên ngọc núi côn
sơn”.
Quý Mão của Kim
bạc kim gặp Kỷ Mão của đất trên thành gọi là: “Thỏ ngọc đông thăng” là mệnh
quý. Ý nói Kim bạc kim là phải được sử dụng ở đền chùa, lâu đài cung điện mới
là quý.
(22) Bính Ngọ,
Đinh Mùi: THIẾN HÀ THỦY.
Bính Đinh, ngũ hành thuộc hỏa. Vòng trường sinh hỏa cục, Ngọ là đế vượng, thủy sinh ra từ hỏa nên có thể xem như nước ở trên trời, nước ở trên trời rơi xuống thành mưa, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của vạn vật.
Nước ở trên trời
cao, cho nên kim, mộc, thủy, hỏa, thố ở dưới đất không thể khắc chế được, trừ
trường hợp đất trên tường (Canh Tý, Tân Mùi) là tương xung nên kỵ gặp.
(23) Mậu Thân,
Kỷ Dậu: ĐẠI TRẠCH THỔ
Thân ở hướng
Tây Nam, thuộc quái Khôn đại biểu là đất. Dậu ở hướng Tây thuộc quái Đoài, đại
biểu cho ao đầm, Mậu Kỷ thuộc ngũ hành thổ. Chính là đất ở trên mặt đất hay ao
hồ giống như bụi bay trong không khí. Cho nên gọi nó là đất dịch chuyển, có
sách cho là đất vườn lớn.
Tại Thân Dậu,
âm dương bắt đầu thu lại, nguyên khí dần hồi phục giống như đất dịch chuyển
quay về mặt đất. Như con người hay vạn vật trở về với bản tính tự nhiên trường
tồn) trong vũ trụ.
Đại trạch thổ
thích nước yên tĩnh như nước giếng, nước dưới khe, nước sông dài. Nó cũng thích
kim thanh tú như kim bạc kim, thoa xuyến kim.
Đại trạch thổ kỵ
gặp nước biển lớn, lửa trên núi, lửa ngọn đèn.
(24) Canh Tuất,
Tân Hợi: THOA XUYẾN KIM
Kim cục, vòng
trường sinh Suy tại Tuất, Bệnh tại Hợi, kim tại nơi vừa suy vừa bệnh nên rất yếu
ớt mà gọi là kim trang sức (Thoa xuyến kim). Vậy nên kim trang sức sợ gặp hỏa,
thích gặp nước giếng, nước khe, nước trong suối, nước sông dài, kỵ gặp nước biển
lớn như cát nơi đáy biển. Ngoài ra còn ý thích đất trong cát vì thổ là nơi dưỡng
kim.
(25) Nhâm Tý,
Quý Sửu: TANG ĐỐ MỘC
Ngũ hành của Tý
là thủy, của Sửu là thổ, thổ sinh kim, thủy sinh mộc, làm cho mộc phát triển
xanh tươi, nhưng kim khắc, ý mộc lại có thể chặt nó. Người ta ví mộc mới sinh
trưởng như giống cây dây dễ bị chặt nên gọi là gốc cây dâu (Tang đố mộc).
Trong quá trình
sinh trưởng, nếu gỗ cây dâu gặp đất trong cát, đất ven đường, đất dịch chuyển
thì rất tốt. Nếu gặp nước sông dài, nước dưới khe, nước trong suối sẽ được tưới
tắm xanh tốt. Nếu gặp Canh Dần, Tân Mão, gỗ cây tùng thì càng tốt. Vì thân cây
yếu dựa vào cây khỏe mà giúp nhau tồn tại. Nếu không gặp gỗ cây liễu thì “dâu
liễu thành rừng” cùng loại thân yểu. Kết lại với nhau mà an cư lập nghiệp, chỉ
kỵ gặp gỗ đồng bằng sẽ bị chèn ép tàn phá.
(26) Giáp Dần, Ất
Mão: ĐẠI KHÊ THỦY
Dần Mão thuộc phương Đông, là nơi gió đông thịnh vượng. Nếu dòng chảy chính Đông với các nước Á Đông – hướng Đông. Vậy nên gọi là nước suối lớn.
Nước suối lớn đổ
về sông, sông chảy ra biển nên dòng chảy là liên tục, không dứt, vì thế nước suối
lớn nên gặp kim sinh thủy giúp sức. Nếu gặp thổ khắc hoặc phải tiết khí cho mộc
đều không hay. Chỉ có‘thể gặp Tang đố mộc là được, người ta luận rằng Nhâm Tý
là Thủy, Quý Sửu là núi, lại gặp nước, sách gọi là “nước chảy quanh núi” là mệnh
quý.
(27) Bính Thìn,
Đinh Tỵ: SA TRUNG THỔ
Thổ cục, vòng
trường sinh Mộ ở Thìn, Tuyệt ở Tỵ (thủy thổ đồng cục) Bính Đinh ngũ hành hỏa. Hỏa
cục, Quan đới ở Thìn, Lâm quan ở Tỵ. Ở Thìn, Tỵ, thổ bị Mộ Tuyệt, hỏa thì thịnh
vượng khiến cho nó có thể làm lại mới tất cả.
Người ta ví như
những đốm tro khi đốt bay lên trời rồi rơi xuống thành thổ. Nên gọi là đất
trong cát (sa trung thổ).
Đất trong cát gặp
kim là quý, thích gặp lửa trên trời, có ánh nắng mặt trời, bãi cát dài trên
sông trên biển mới đẹp rạng ngời. Thích gỗ cây dâu và cây dương liễu, vì hai loại
gỗ này cần đất của nó, kỵ gặp các loại mộc, hỏa khác.
(28) Mậu Ngọ, Kỷ
Mùi: THIÊN THƯỢNG HỎA
Hỏa cục, Ngọ là
đế vượng tức cực thịnh của hỏa, Mùi và Kỷ thổ là nơi mộc sinh trưởng, mộc sinh
hỏa khiến hỏa càng mạnh hơn.
Hỏa mạnh bốc
cao nên gọi là lửa trên trời, lửa trên trời chính là lửa của mặt trời nên thích
gặp mộc, thủy, kim để điều hòa, sao cho thủy giúp cho mộc phát triển xanh tươị,
mộc giúp hỏa bốc cháy mạnh mẽ.
Thiên thượng hỏa
.chỉ thích lửa ngọn đèn ngoài ra đều tương khắc với các hỏa khác, thích gặp thổ,
nếu có kim mộc nữa thì tạo thành mệnh quý.
(29) Canh Thân,
Tân Dậu: THẠCH LỰU MỘC
Hai vị Thân và
Dậu ở nơi âm dương đã bắt đầu thu lại, vạn vật chuẩn bị đi vào hồi kết. Tân và
Dậu đại biểu cho tháng 7 và 8 khi mà cây cối đang bắt đầu tàn lụi. Chỉ có cây
thạch lựu kết trái mà gọi Canh Thân, Tân Dậu là gỗ cây lựu. Vì kết trái vào mùa
thu nên cây lựu, tính mộc cứng rắn, gặp thủy, mộc, thổ, kim qua lại có thể hòa
hợp tốt, kỵ nước biển lớn, thủy ào ạt làm nó bần cùng và tai ách.
Gỗ thạch lựu
thường bao hàm mệnh quý như sinh tháng 5 (Ngọ) mà trụ ngày hoặc trụ giờ lại có
mang một hỏa gọi là “thạch lựu phun lửa” gặp dương liễu mộc gọi là “hoa hồng liễu
xanh”.
(30) Nhâm Tuất,
Quỷ Hợi: ĐẠI HẢI THỦY
Thủy cục, Quan
đới tại Tuất, Lâm quan tại Hợi, do đó tại Tuất Hợi là nơi thủy đang thịnh vượng,
ngũ hành của Hợi thuộc thủy, hình tượng như cửa sông đổ ra biển, nên gọi là nước
biển lớn.
Nước biển lớn
chính là đại dương mênh mông, nơí qui tụ của tất cả các dòng sông, vì thế các
loại nước trên trời, nước sông dài, nước suối lớn… gặp nước biển đều rất tốt.
Nhâm Thìn trong
nước sông dài gặp nước biển lớn gọi là “rồng quay về biển” mệnh này phú quý
không gì bằng.
Gặp hỏa, nó
thích lửa trên trời vì mặt trời mọc ở biển Đông, gặp kim nó thích kim đáy biển,
gặp mộc nó thích gỗ cây dâu, gỗ dương liễu, gặp thổ nó thích đất dịch chuyển và
đất bên đường. Ngoài ra tất cả đều không chịu nổi nước biển lớn. Nếu gặp lửa sấm
sét sẽ tạo nên nước hung hãn, phong ba bão táp, một đời lao khổ.
(Nguồn:
Internet)
0 Comments